Những mốc son lịch sử qua các kỳ đại hội Đảng

ttxvn1601da-1610792259-42.jpg

Kể từ ngày thành lập đến nay, Đảng Cộng sản đã trải qua 2 hội nghị và 12 kỳ đại hội. Mỗi kỳ Đại hội Đảng là một mốc lịch sử quan trọng ghi nhận những thắng lợi, thành tựu và những bài học kinh nghiệm của cách mạng Việt Nam.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, dân tộc Việt Nam đã giành được những thắng lợi vẻ vang: từ thành công của Cách mạng tháng Tám 1945, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đến thắng lợi của hai cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp (1945-1954) và đế quốc Mỹ (1954-1975) cho tới xây dựng một đất nước Việt Nam hội nhập, không ngừng phát triển như hiện nay.

Những thắng lợi vĩ đại trên có ý nghĩa lịch sử và thời đại, bắt nguồn từ đường lối lãnh đạo của Đảng, trước hết là việc hoạch định cương lĩnh đúng đắn, sáng tạo và có tính hiện thực cao; sự đoàn kết nhất trí một lòng của toàn Đảng, toàn dân vượt qua mọi khó khăn, gian khổ quyết tâm xây dựng nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập và giàu mạnh./.

Đại hội I và II

Hội nghị hợp nhất các tổ chức Cộng sản ở Việt Nam dưới sự chủ trì của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, từ ngày 3 đến ngày 7/2/1930 tại Cửu Long, gần Hương Cảng (Trung Quốc) mang tầm vóc lịch sử của Đại hội thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Hội nghị đã thông qua Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt và Điều lệ vắn tắt của Đảng, vạch ra đường lối giải phóng dân tộc và tiến lên chủ nghĩa xã hội của cách mạng Việt Nam.

Đại hội Đại biểu lần thứ I của Đảng là một sự kiện lịch sử quan trọng, đánh dấu thắng lợi căn bản của cuộc đấu tranh giữ gìn và khôi phục hệ thống tổ chức của Đảng từ Trung ương đến cơ sở.

Hội nghị lần thứ nhất Ban chấp hành Trung ương Đảng họp tại Hương Cảng, Trung Quốc (từ ngày 14 đến ngày 31/10/1930), quyết định đổi tên Đảng Cộng sản Việt Nam thành Đảng Cộng sản Đông Dương, thông qua Luận cương Chính trị, các Nghị quyết quan trọng về nhiệm vụ cần kíp vận động các đối tượng quần chúng cụ thể. Hội nghị đã bầu ra Ban chấp hành Trung ương chính thức của Đảng do đồng chí Trần Phú làm Tổng Bí thư.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ I của Đảng: Củng cố, phát triển lực lượng lãnh đạo toàn dân chống đế quốc, chống chiến tranh

Ngay sau khi thành lập, Đảng đã lãnh đạo phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc giành những thắng lợi, mà đỉnh cao là cao trào Xô Viết Nghệ Tĩnh (1930-1931), khẳng định đường lối cách mạng đúng đắn của Đảng. Sau đó, thực dân Pháp xâm lược thẳng tay đàn áp, khủng bố phong trào yêu nước. Tổng Bí thư Trần Phú và nhiều người cộng sản bị bắt và đã anh dũng hy sinh. Cơ quan đầu não của Đảng không còn.

Cao trào cách mạng 1930-1931 mà đỉnh cao là phong trào Xô Viết-Nghệ Tĩnh 1930-1931 đã làm rung chuyển chế độ thống trị của đế quốc Pháp và tay sai. Cao trào cách mạng 1930-1931 đã khẳng định đường lối cách mạng Việt Nam do Ðảng đề ra là đúng đắn và để lại những bài học quý báu về xây dựng liên minh công-nông, về xây dựng Mặt trận Dân tộc Thống nhất, về phát động phong trào quần chúng đấu tranh giành và bảo vệ chính quyền. (Ảnh: Tư liệu TTXVN)
Cao trào cách mạng 1930-1931 mà đỉnh cao là phong trào Xô Viết-Nghệ Tĩnh 1930-1931 đã làm rung chuyển chế độ thống trị của đế quốc Pháp và tay sai. Cao trào cách mạng 1930-1931 đã khẳng định đường lối cách mạng Việt Nam do Ðảng đề ra là đúng đắn và để lại những bài học quý báu về xây dựng liên minh công-nông, về xây dựng Mặt trận Dân tộc Thống nhất, về phát động phong trào quần chúng đấu tranh giành và bảo vệ chính quyền. (Ảnh: Tư liệu TTXVN)

Theo chỉ đạo của Quốc tế Cộng sản, Ban chỉ huy ở nước ngoài (Ban Hải ngoại) của Đảng Cộng sản Đông Dương được thành lập đầu năm 1934, do ông Lê Hồng Phong làm Thư ký (Bí thư). Ban Hải ngoại giữ vai trò lãnh đạo và tổ chức lại cơ quan Trung ương của Đảng.

Vượt qua cuộc khủng bố trắng ác liệt, Đảng và các phong trào cách mạng, các cơ sở quần chúng vẫn tồn tại, phát triển rộng khắp. Ủy viên Ban Chấp hành Quốc tế Cộng sản Lê Hồng Phong cùng các vị lãnh đạo trong nước tổ chức khôi phục phong trào, tổ chức của Đảng và chuẩn bị Đại hội.

Đại hội lần thứ I của Đảng diễn ra từ ngày 27 đến 31/3/1935, tại Macau, Trung Quốc, với sự tham gia của 13 đại biểu thuộc các đảng bộ trong nước và tổ chức của Đảng hoạt động ở nước ngoài, do đồng chí Hà Huy Tập chủ trì.

Đại hội đánh giá việc khôi phục hệ thống tổ chức của Đảng và phong trào đấu tranh của quần chúng, đồng thời đề ra ba nhiệm vụ củng cố và phát triển Đảng, đẩy mạnh cuộc vận động quần chúng và mở rộng tuyên truyền chống đế quốc, chống chiến tranh.

Đại hội bầu Ban chấp hành Trung ương Đảng, gồm 13 người. Chủ tịch Hồ Chí Minh được cử làm đại diện của Đảng bên cạnh Quốc tế Cộng sản. Đồng chí Lê Hồng Phong được bầu làm Tổng Bí thư của Đảng.

Đại hội Đại biểu lần thứ I của Đảng là một sự kiện lịch sử quan trọng, đánh dấu thắng lợi căn bản của cuộc đấu tranh giữ gìn và khôi phục hệ thống tổ chức của Đảng từ Trung ương đến cơ sở.

Cách mạng Tháng Tám diễn ra và thắng lợi chỉ trong khoảng 2 tuần lễ, nhưng Bác Hồ và Đảng ta đã mất 15 năm để chuẩn bị cho chiến thắng lịch sử này, trong đó có việc chuẩn bị lực lượng cán bộ. Trong ảnh: Nhà của ông Hứa Gia Khởi, làng Nặm Quang (Trung Quốc), nơi Bác Hồ đã ở trong thời gian mở lớp huấn luyện chính trị cho các cán bộ Việt Nam (12/1940). (Ảnh: Tư liệu/TTXVN phát)
Cách mạng Tháng Tám diễn ra và thắng lợi chỉ trong khoảng 2 tuần lễ, nhưng Bác Hồ và Đảng ta đã mất 15 năm để chuẩn bị cho chiến thắng lịch sử này, trong đó có việc chuẩn bị lực lượng cán bộ. Trong ảnh: Nhà của ông Hứa Gia Khởi, làng Nặm Quang (Trung Quốc), nơi Bác Hồ đã ở trong thời gian mở lớp huấn luyện chính trị cho các cán bộ Việt Nam (12/1940). (Ảnh: Tư liệu/TTXVN phát)

Tháng 7/1936, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương họp ở Thượng Hải (Trung Quốc) để xác định chủ trương mới của Đảng về các vấn đề chiến lược và sách lược cách mạng ở Đông Dương. Hội nghị cử đồng chí Hà Huy Tập giữ chức Tổng Bí thư.

Tháng 3/1938, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp quyết định mở rộng hơn nữa Mặt trận thống nhất dân chủ Đông Dương. Tại Hội nghị này, đồng chí Nguyễn Văn Cừ được bầu vào Ban Thường vụ Trung ương Đảng, sau đó được bầu làm Tổng Bí thư.

Tháng 11/1939, Ban Chấp hành Trung ương họp dưới sự chủ trì của Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ quyết định điều chỉnh sự chỉ đạo chiến lược của cách mạng Đông Dương cho phù hợp hoàn cảnh mới. Từ đó, phong trào đấu tranh cách mạng trong cả nước diễn ra sôi nổi, báo hiệu cuộc Tổng khởi nghĩa toàn quốc của nhân dân sẽ nổ ra.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng: Đảng lãnh đạo toàn dân kháng chiến, kiến quốc

Ngay sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời. Dân tộc Việt Nam, chế độ Việt Nam đứng trước những thách thức cực kỳ hiểm nghèo: Quân Tưởng tràn vào miền Bắc kéo theo các đảng phái phản động; được sự che chở của quân Anh, quân đội Pháp quay trở lại đánh chiếm miền Nam, với mục đích chung là bóp chết Nhà nước công nông đầu tiên còn non trẻ ở Đông Nam Á. Cùng lúc, đất nước phải đối mặt với ba khó khăn, thù trong giặc ngoài và hậu quả 80 năm dưới ách đô hộ áp bức, bóc lột của chế độ thực dân, phong kiến mà nặng nề nhất là nạn đói năm 1945 làm hơn 2 triệu người chết.

Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được Quốc hội khoá I, kỳ họp thứ hai (28/10-9/11/1946) bầu ra. (Ảnh: Tư liệu TTXVN)
Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được Quốc hội khoá I, kỳ họp thứ hai (28/10-9/11/1946) bầu ra. (Ảnh: Tư liệu TTXVN)

Trước thế “ngàn cân treo sợi tóc,” Trung ương Đảng, Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh tập trung lãnh đạo kháng chiến, khôn khéo loại dần những kẻ thù, tranh thủ thời gian để chuẩn bị điều kiện và lực lượng cho cuộc kháng chiến lâu dài. Chủ tịch Hồ Chí Minh phát động phong trào diệt giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm, động viên toàn dân gia tăng gia sản xuất; tổ chức cuộc Tổng tuyển cử, bầu Quốc hội khóa I, thành lập Chính phủ và ban hành Hiến pháp năm 1946.

Đại hội lần thứ II của Đảng có ý nghĩa cực kỳ quan trọng, đánh dấu bước phát triển mới của Đảng, đồng thời chuẩn bị mọi điều kiện để đưa cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đến thắng lợi hoàn toàn.

Để bảo vệ hòa bình độc lập dân tộc, Việt Nam kiên trì đàm phán, thương lượng với thực dân Pháp. Song bọn thực dân quyết xâm lược Việt Nam một lần nữa. Chúng gây hấn ở Lạng Sơn, Hải Phòng rồi tiến đánh Hà Nội. Càng nhân nhượng, chúng càng lấn tới, buộc dân tộc Việt Nam phải cầm súng chiến đấu. Từ ngày 18 đến 19/12/1946, tại làng Vạn Phúc thị xã Hà Đông (Hà Tây, nay là Hà Nội), Thường vụ Trung ương Đảng họp mở rộng nêu quyết tâm tiến hành cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.

Ngay hôm đó 19/12, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến với quyết tâm: “Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ.” Ngay sau đó, ngày 22/12, Đảng ra Chỉ thị toàn dân kháng chiến.

Năm 1947, Tổng Bí thư Trường Chinh viết tác phẩm “Kháng chiến nhất định thắng lợi” xác định đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ và dựa vào sức mình là chính. Các nghị quyết hội nghị Trung ương và Hội nghị quân sự toàn quốc do Trung ương tổ chức đã từng bước hoàn chỉnh đường lối kháng chiến của Đảng.

Sau chiến thắng thu-đông năm 1947 và chiến dịch Biên giới năm 1950, thế và lực của cuộc chiến tranh nhân dân phát triển vượt bậc. Để tiếp tục phát triển đường lối kháng chiến, kiến quốc, Trung ương Đảng quyết định triệu tập Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng.

Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ II diễn ra từ ngày 11-19/2/1951 tại xã Vinh Quang, huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang.(Ảnh: Tư liệu TTXVN)
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ II diễn ra từ ngày 11-19/2/1951 tại xã Vinh Quang, huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang.(Ảnh: Tư liệu TTXVN)

Đại hội họp tại xã Vinh Quang, huyện Chiêm Hóa, tỉnh Tuyên Quang từ ngày 11 đến 19/2/1951, với sự tham gia của 158 đại biểu chính thức, 53 đại biểu dự khuyết thay mặt cho hơn 760.000 đảng viên. Đến dự Đại hội còn có đại biểu của Đảng Cộng sản Trung Quốc, Đảng Cộng sản Thái Lan.

Đại hội đã nghe Chủ tịch Hồ Chí Minh trình bày báo cáo chính trị; Báo cáo Bàn về Cách mạng Việt Nam của Tổng Bí thư Trường Chinh; Báo cáo về tổ chức và Điều lệ Đảng của đồng chí Lê Văn Lương…

Đại hội đã quyết nghị đưa Đảng ra hoạt động công khai với tên gọi mới là Đảng Lao động Việt Nam, thông qua Chính cương, Tuyên ngôn và Điều lệ mới của Đảng. Đại hội bầu Ban Chấp hành Trung ương gồm 19 ủy viên chính thức và 10 ủy viên dự khuyết. Chủ tịch Hồ Chí Minh được bầu là Chủ tịch Ban Chấp hành Trung ương Đảng, đồng chí Trường Chinh được bầu lại làm Tổng Bí thư.

Đại hội lần thứ II của Đảng có ý nghĩa cực kỳ quan trọng, đánh dấu bước phát triển mới của Đảng, đồng thời chuẩn bị mọi điều kiện để đưa cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đến thắng lợi hoàn toàn./.

Đông đảo nhân dân tập trung tại Quảng trường Ba Đình nghe Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc Lập ngày 2/9/1945. (Ảnh: TTXVN)
Đông đảo nhân dân tập trung tại Quảng trường Ba Đình nghe Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc Lập ngày 2/9/1945. (Ảnh: TTXVN)

Đại hội III, IV, V

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng: Xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh giải phóng miền Nam

Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược kết thúc thắng lợi. Đảng lãnh đạo nhân dân miền Bắc tiến hành khôi phục kinh tế, cải tạo xã hội chủ nghĩa, tăng cường xây dựng lực lượng vũ trang để bảo vệ miền Bắc, chi viện cho miền Nam.

Nhân dân miền Nam tiếp tục phải đương đầu với cuộc xâm lược của đế quốc Mỹ. Chúng dựng lên chế độ độc tài, mưu đồ biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới, căn cứ quân sự của đế quốc Mỹ và chia cắt lâu dài đất Việt Nam.

Đảng tổ chức Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III từ ngày 5 đến 10/9/1960 tại Hà Nội.Đại hội chỉ rõ nhiệm vụ cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc là nhiệm vụ quyết định nhất đối với sự phát triển của toàn bộ cách mạng Việt Nam, đối với sự nghiệp thống nhất nước nhà của nhân dân Việt Nam.

Với luật phátxít 10/59, chế độ gia đình trị Ngô Đình Diệm lê máy chém khắp nơi, tàn sát dã man những người yêu nước. Giữa lúc cách mạng miền Nam đầy cam go, đồng chí Lê Duẩn trên cương vị Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư xứ ủy Nam Bộ đã viết Đề cương cách mạng miền Nam nêu rõ, “Ngoài con đường cách mạng, nhân dân miền Nam không có con đường nào khác.”

Nghị quyết Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ 15 (tháng 1/1959) xác định rõ đường lối cách mạng miền Nam, kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang, thúc đẩy phong trào đấu tranh của nhân dân miền Nam. Nghị quyết quan trọng này đã tạo bước chuyển biến lớn đối với sự nghiệp cách mạng của nhân dân cả nước, góp phần hoàn chỉnh đường lối kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của Đảng. Từ đó, phong trào đấu tranh của đồng bào miền Nam ngày càng lan rộng, nhất là phong trào “đồng khởi” phá thế kìm kẹp của địch, giành chính quyền.

Đại hội đại biểu toàn quốc Đảng Lao động Việt Nam lần thứ III (5-10/9/1960), tại Hà Nội. (Nguồn: TTXVN)
Đại hội đại biểu toàn quốc Đảng Lao động Việt Nam lần thứ III (5-10/9/1960), tại Hà Nội. (Nguồn: TTXVN)

Sự phát triển của cách mạng miền Bắc, cách mạng miền Nam tạo ra những chuyển biến tích cực cho cả nước. Đảng tổ chức Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III từ ngày 5 đến 10/9/1960 tại Hà Nội. Dự Đại hội có 525 đại biểu chính thức và 51 đại biểu dự khuyết thay mặt hơn 500.000 đảng viên.

Trong lời khai mạc, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: “Đại hội lần này là Đại hội xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh hòa bình thống nhất nước nhà.”

Đại hội thông qua nhiệm vụ và phương hướng của kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961-1965). Đại hội chỉ rõ nhiệm vụ cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc là nhiệm vụ quyết định nhất đối với sự phát triển của toàn bộ cách mạng Việt Nam, đối với sự nghiệp thống nhất nước nhà của nhân dân Việt Nam.

Cách mạng miền Nam có vị trí rất quan trọng, quyết định trực tiếp sự nghiệp giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai, thực hiện hòa bình thống nhất nước nhà, hoàn thành nhiệm vụ cách mạng dân chủ nhân dân trong cả nước.

Từ cuối năm 1959, đầu năm 1960, phong trào “Đồng Khởi” lan rộng ở nhiều tỉnh Nam bộ, Tây Nguyên và miền Tây các tỉnh khu 5, tạo thành một vùng căn cứ rộng lớn. Trong ảnh: “Đội quân tóc dài” tỉnh Bến Tre biểu tình phản đối Đế quốc Mỹ trong phong trào Đồng Khởi. (Ảnh: Tư liệu TTXVN)
Từ cuối năm 1959, đầu năm 1960, phong trào “Đồng Khởi” lan rộng ở nhiều tỉnh Nam bộ, Tây Nguyên và miền Tây các tỉnh khu 5, tạo thành một vùng căn cứ rộng lớn. Trong ảnh: “Đội quân tóc dài” tỉnh Bến Tre biểu tình phản đối Đế quốc Mỹ trong phong trào Đồng Khởi. (Ảnh: Tư liệu TTXVN)

Đại hội bầu Ban Chấp hành Trung ương gồm 47 ủy viên chính thức và 31 ủy viên dự khuyết. Chủ tịch Hồ Chí Minh được bầu lại làm Chủ tịch Đảng (Người giữ cương vị này cho đến khi qua đời, tháng 9/1969); đồng chí Lê Duẩn được bầu làm Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng.

Với đường lối cách mạng đúng đắn của Đảng, với sự hy sinh vô cùng to lớn của nhân dân Việt Nam anh hùng, cách mạng Việt Nam đã giành được những thắng lợi vô cùng to lớn.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng: Tổng kết cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, đưa đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội

Bằng cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 mà đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân Việt Nam đã làm nên chiến thắng vĩ đại: giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước. Cách mạng Việt Nam chuyển sang giai đoạn mới.

Tháng 12/1976, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng, đồng chí Lê Duẩn được bầu làm Tổng Bí thư. Tháng 3/1982, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng, đồng chí Lê Duẩn tiếp tục được bầu làm Tổng Bí thư. Trong ảnh: Tổng Bí thư Lê Duẩn thăm công trường xây dựng hệ thống thủy lợi sông Hoàng Mai, tỉnh Thanh Hóa (17/1/1978). (Ảnh: Văn Bảo/TTXVN)
Tháng 12/1976, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng, đồng chí Lê Duẩn được bầu làm Tổng Bí thư. Tháng 3/1982, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng, đồng chí Lê Duẩn tiếp tục được bầu làm Tổng Bí thư. Trong ảnh: Tổng Bí thư Lê Duẩn thăm công trường xây dựng hệ thống thủy lợi sông Hoàng Mai, tỉnh Thanh Hóa (17/1/1978). (Ảnh: Văn Bảo/TTXVN)

Lần đầu tiên trên đất nước hòa bình, độc lập và thống nhất, nhân dân khắp mọi miền Tổ quốc nô nức tham gia cuộc tổng tuyển cử, bầu Quốc hội chung của cả nước.

Trong không khí phấn khởi, tin tưởng, Đại hội đại biểu lần thứ IV của Đảng diễn ra từ ngày 14 đến 20/12/1976, tại Hà Nội. Dự Đại hội có 1.008 đại biểu thay mặt hơn 1,55 triệu đảng viên cả nước và 29 đoàn đại biểu quốc tế.

Đại hội đại biểu lần thứ IV của Đảng diễn ra từ ngày 14 đến 20/12/1976, tại Hà Nội. Đại hội quyết định đổi tên Đảng Lao động Việt Nam thành Đảng Cộng sản Việt Nam và thông qua điều lệ mới của Đảng. 

Đại hội tổng kết cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt Nam, nêu những bài học kinh nghiệm lớn với nhiều nội dung phong phú, sâu sắc, đồng thời khẳng định con đường cách mạng của cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.

Đường lối, chủ trương xuyên suốt giai đoạn này là thực hiện chính sách hòa hợp dân tộc, cải tạo xã hội chủ nghĩa, hàn gắn vết thương chiến tranh, từng bước khôi phục, phát triển kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục; xây dựng cơ sở vật chất của chủ nghĩa xã hội; củng cố quốc phòng, giữ gìn an ninh chính trị, trật tự-an toàn xã hội, tăng cường công tác xây dựng Đảng để nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng trong giai đoạn mới.

Đại hội xác định đẩy mạnh công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trọng tâm của cả thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.

Đại hội quyết định đổi tên Đảng Lao động Việt Nam thành Đảng Cộng sản Việt Nam và thông qua điều lệ mới của Đảng. Đại hội đặt lại chức Tổng Bí thư thay chức Bí thư thứ nhất; bầu Ban Chấp hành Trung ương gồm 101 ủy viên chính thức và 32 ủy viên dự khuyết. Bộ Chính trị gồm 14 ủy viên chính thức và 3 ủy viên dự khuyết. Ông Lê Duẩn được bầu làm Tổng Bí thư.

Đại hội lần thứ IV của Đảng có ý nghĩa cực kỳ quan trọng: Là Đại hội toàn thắng của sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất nước nhà, cả nước đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng: Tất cả vì Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, vì hạnh phúc của nhân dân

Từ Đại hội lần thứ IV đến Đại hội V của Đảng là những năm đầu cách mạng Việt Nam chuyển sang giai đoạn mới, đất nước thống nhất bước vào xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Dưới ánh sáng Nghị quyết Đại hội lần IV của Đảng, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân đã ra sức khôi phục, cải tạo và phát triển kinh tế giành thắng lợi trên nhiều lĩnh vực.

Song nền kinh tế-xã hội của đất nước gặp nhiều khó khăn, thách thức mới. Đảng, Nhà nước ban hành một số chủ trương, chính sách mới về phát triển kinh tế.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng đã họp từ ngày 27 đến 31/3/1982 tại Hà Nội. Đại hội vạch ra phương hướng, nhiệm vụ, mục tiêu chủ yếu về kinh tế-xã hội từ năm 1981 đến 1985, đề ra hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. 

Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IV (tháng 8/1979) bàn về giải pháp khắc phục những yếu kém trong quản lý kinh tế và cải tạo xã hội chủ nghĩa, điều chỉnh những chủ trương, chính sách kinh tế, xóa bỏ rào cản, mở đường cho sản xuất phát triển; đổi mới công tác kế hoạch hóa, kết hợp kế hoạch với thị trường, kết hợp 3 lợi ích: Nhà nước, tập thể, cá nhân người lao động…

Nghị quyết Trung ương 6 (khóa IV) đã tạo động lực mới cho kinh tế nông, lâm, ngư nghiệp và công nghiệp hàng tiêu dùng phát triển. Chỉ thị 100 tháng 10/1981 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động trong hợp tác xã nông nghiệp đã bước đầu tạo khí thế mới trong sản xuất. Nông nghiệp có chiều hướng phát triển tốt, công nghiệp quốc doanh xuất hiện một số điển hình đạt hiệu quả kinh tế cao, tiểu thủ công nghiệp phát triển khá.

Gia đình xã viên Hợp tác xã Phương Đình, huyện Đan Phượng (Hà Nội) dùng máy tuốt lúa đạp chân để tăng năng suất lao động trong vụ mùa. (Ảnh: Đình Na/TTXVN)
Gia đình xã viên Hợp tác xã Phương Đình, huyện Đan Phượng (Hà Nội) dùng máy tuốt lúa đạp chân để tăng năng suất lao động trong vụ mùa. (Ảnh: Đình Na/TTXVN)

Công tác quản lý kinh tế bắt đầu chuyển đúng hướng. Các lĩnh vực văn hóa-xã hội cũng có nhiều chuyển biến tích cực. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được vẫn còn không ít khó khăn như: chưa thu hẹp được những mất cân đối nghiêm trọng của nền kinh tế quốc dân; thu nhập quốc dân chưa bảo đảm cho tiêu dùng xã hội, nền kinh tế chưa tạo được tích lũy.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng đã họp từ ngày 27 đến 31/3/1982 tại Hà Nội.

Dự Đại hội có 1.033 đại biểu, thay mặt hơn 1,72 triệu đảng viên trong cả nước và 47 đoàn đại biểu quốc tế.

Đại hội nghe Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng và nhiều báo cáo quan trọng khác. Đại hội đã chỉ ra nguyên nhân khách quan, chủ quan của khó khăn, yếu kém. Đại hội đã thẳng thắn nêu lên nguyên nhân chủ quan, đó là những sai lầm về lãnh đạo và quản lý kinh tế, quản lý xã hội.

Việc nắm và hiểu tình hình thực tế, việc cụ thể hóa đường lối và chấp hành đường lối của Đảng có những khuyết điểm, sai lầm. Chưa thấy hết khó khăn, phức tạp của con đường đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nền kinh tế mà sản xuất nhỏ còn phổ biến, duy trì quá lâu cơ chế quản lý hành chính, quan liêu bao cấp, chậm thay đổi các chính sách…

Trên cơ sở đó, Đại hội vạch ra phương hướng, nhiệm vụ, mục tiêu chủ yếu về kinh tế-xã hội từ năm 1981 đến 1985, đề ra hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đại hội khẳng định tiếp tục thực hiện đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa mà Đại hội lần thứ IV của Đảng đã đề ra.

Đại hội thông qua Điều lệ (sửa đổi) của Đảng và bầu Ban Chấp hành Trung ương Đảng gồm 116 ủy viên chính thức và 36 ủy viên dự khuyết; ông Lê Duẩn được Ban Chấp hành Trung ương bầu lại làm Tổng Bí thư.

Sau Đại hội, tình hình kinh tế, nhất là tình hình thị trường giá cả tiếp tục diễn biến xấu, tiền lương thực tế liên tục bị giảm sút. Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 8 đã bàn và quyết định vấn đề cải cách một bước giá cả, tiền lương, tài chính, tiền tệ để xóa bỏ quan liêu, bao cấp, chuyển hẳn sang hạch toán kinh tế và kinh doanh xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh sản xuất và kinh doanh có hiệu quả./.

Tại Hội nghị Trung ương lần thứ tám, tháng 5/1941, đồng chí Trường Chinh được cử làm Tổng Bí thư của Đảng. Tháng 2/1951, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng, đồng chí Trường Chinh được bầu làm Tổng Bí thư Ban chấp hành trung ương Đảng Lao động Việt Nam. Ngày 17/7/1986, Ban chấp hành trung ương Đảng họp phiên đặc biệt, đồng chí Trường Chinh được bầu giữ chức vụ Tổng Bí thư thay đồng chí Lê Duẩn từ trần. Trong ảnh: Tổng Bí thư Trường Chinh chúc Tết bộ đội Trường Sơn, Xuân Giáp Dần 1974. (Ảnh: Lâm Hồng/TTXVN)
Tại Hội nghị Trung ương lần thứ tám, tháng 5/1941, đồng chí Trường Chinh được cử làm Tổng Bí thư của Đảng. Tháng 2/1951, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng, đồng chí Trường Chinh được bầu làm Tổng Bí thư Ban chấp hành trung ương Đảng Lao động Việt Nam. Ngày 17/7/1986, Ban chấp hành trung ương Đảng họp phiên đặc biệt, đồng chí Trường Chinh được bầu giữ chức vụ Tổng Bí thư thay đồng chí Lê Duẩn từ trần. Trong ảnh: Tổng Bí thư Trường Chinh chúc Tết bộ đội Trường Sơn, Xuân Giáp Dần 1974. (Ảnh: Lâm Hồng/TTXVN)

Đại hội VI

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng: Đổi mới toàn diện đất nước vì thắng lợi của chủ nghĩa xã hội

Thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ IV, lần thứ V và các nghị quyết Ban Chấp hành Trung ương của các nhiệm kỳ đại hội đó, nhân dân Việt Nam đã phấn đấu vượt qua khó khăn, đạt nhiều thành tựu quan trọng. Công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa đã tiến thêm một bước.

Đại hội đại biểu lần thứ VI của Đảng diễn ra từ ngày 15 đến 18/12/1986, tại Hà Nội. Ông Nguyễn Văn Linh được bầu làm Tổng Bí thư của Đảng

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đó, nền kinh tế-xã hội Việt Nam đứng trước nhiều khó khăn. Việt Nam đã mắc những sai lầm trong bố trí cơ cấu kinh tế, nhất là ở lĩnh vực đầu tư và xây dựng cơ bản của những năm 1976-1980, đã để lại hậu quả nặng nề.

Thực tiễn đất nước đặt Đảng trước những thách thức to lớn, đòi hỏi phải đổi mới phương pháp lãnh đạo, trước hết là đổi mới tư duy. Đại hội đại biểu lần thứ VI của Đảng diễn ra từ ngày 15 đến 18/12/1986, tại Hà Nội.

Dự Đại hội có 1.129 đại biểu thay mặt gần 1,9 triệu đảng viên trong toàn Đảng, và 32 đoàn đại biểu quốc tế.

Đại hội VI đã cụ thể hóa việc thực hiện chủ trương “nông nghiệp là mặt trận hàng đầu” nên rất chú trọng nghiên cứu chính sách quản lý nông nghiệp. Vì vậy, tư duy mới về quản lý nông nghiệp đã có không gian để phát triển. Trong ảnh: Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh - người khởi xướng cho công cuộc đổi mới ở Việt Nam từ Đại hội VI. (Ảnh: TTXVN)
Đại hội VI đã cụ thể hóa việc thực hiện chủ trương “nông nghiệp là mặt trận hàng đầu” nên rất chú trọng nghiên cứu chính sách quản lý nông nghiệp. Vì vậy, tư duy mới về quản lý nông nghiệp đã có không gian để phát triển. Trong ảnh: Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh – người khởi xướng cho công cuộc đổi mới ở Việt Nam từ Đại hội VI. (Ảnh: TTXVN)

Trên cơ sở phân tích, đánh giá đúng tình hình của đất nước… Đại hội VI đã đề ra đường lối đổi mới. Đại hội xác định đổi mới toàn diện trên mọi lĩnh vực, trọng tâm trước mắt là đổi mới chính sách kinh tế, giữ vững ổn định chính trị là tiền đề bảo đảm thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới. Về phương hướng cơ bản của chính sách kinh tế-xã hội,

Đại hội nêu rõ, tư tưởng chỉ đạo là bố trí lại cơ cấu sản xuất, điều chỉnh lớn cơ cấu đầu tư, bố trí lại nền kinh tế quốc dân theo cơ cấu hợp lý; đổi mới cơ cấu kinh tế giữa các ngành, thực hiện bằng được ba chương trình mục tiêu về lương thực, thực phẩm; hàng tiêu dùng và xuất khẩu.

Xây dựng và củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, sử dụng và cải tạo đúng đắn các thành phần kinh tế. Phát huy mạnh mẽ động lực khoa học kỹ thuật. Mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại. Thực hiện công bằng xã hội, lối sống có văn hóa; đảm bảo an toàn xã hội, khôi phục trật tự, kỷ cương trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội…

Do thực hiện khoán sản phẩm, tích cực thâm canh, hợp tác xã Hải Thanh, huyện Hải Hậu (Hà Nam Ninh) đạt năng suất lúa mùa 2 tấn/ha, đưa năng suất 2 vụ lúa lên 11 tấn, vượt sản lượng khoán 1320 tấn thóc. Cuối năm 1983, liên tục 3 năm, hợp tác xã Hải Thanh đạt năng suất trên 10 tấn/ha/năm và phấn đấu bán thêm 400 tấn thóc cho nhà nước theo giá thỏa thuận. (Ảnh: Bùi Tường/TTXVN)
Do thực hiện khoán sản phẩm, tích cực thâm canh, hợp tác xã Hải Thanh, huyện Hải Hậu (Hà Nam Ninh) đạt năng suất lúa mùa 2 tấn/ha, đưa năng suất 2 vụ lúa lên 11 tấn, vượt sản lượng khoán 1320 tấn thóc. Cuối năm 1983, liên tục 3 năm, hợp tác xã Hải Thanh đạt năng suất trên 10 tấn/ha/năm và phấn đấu bán thêm 400 tấn thóc cho nhà nước theo giá thỏa thuận. (Ảnh: Bùi Tường/TTXVN)

Đại hội đã nêu 4 bài học kinh nghiệm. Một là, trong toàn bộ hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng “lấy dân làm gốc,” xây dựng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động.

Trong điều kiện Đảng cầm quyền phải đặc biệt chăm lo củng cố sự liên hệ giữa Đảng và nhân dân. Mọi chủ trương của Đảng phải xuất phát từ lợi ích của nhân dân lao động.

Hai là, Đảng phải luôn luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan.

Ba là, phải biết kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại trong điều kiện mới.

Bốn là, phải xây dựng Đảng ngang tầm nhiệm vụ chính trị của một đảng cầm quyền lãnh đạo nhân dân tiến hành cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa. Vấn đề cấp bách là tăng cường sức chiến đấu và nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực tổ chức thực tiễn của Đảng. Phải giữ vững nguyên tắc tập trung dân chủ trong sinh hoạt đảng cũng như trong lãnh đạo phát triển kinh tế-xã hội.

Đại hội quyết định bổ sung và sửa đổi một số điểm cụ thể trong Điều lệ Đảng cho phù hợp với tình hình mới; và bầu Ban Chấp hành Trung ương khóa VI, gồm 124 ủy viên chính thức và 49 ủy viên dự khuyết. Ông Nguyễn Văn Linh được bầu làm Tổng Bí thư của Đảng./.

Từ thành tựu của “Khoán 10”, nông nghiệp Việt Nam ngày càng phát triển theo hướng đi mới, trong đó từ chỗ “tự cung tự cấp” đã chuyển sang sản xuất hàng hóa, đưa nhiều giống lúa năng suất cao vào gieo trồng đi đôi với đẩy mạnh ứng dụng khoa học kỹ thuật. Trong ảnh: Sau hơn 30 năm đổi mới, từ chỗ là nước thiếu gạo, phải nhập khẩu, Việt Nam đã vươn lên trở thành nước xuất khẩu gạo đứng thứ hai thế giới. (Ảnh: TTXVN phát)
Từ thành tựu của “Khoán 10”, nông nghiệp Việt Nam ngày càng phát triển theo hướng đi mới, trong đó từ chỗ “tự cung tự cấp” đã chuyển sang sản xuất hàng hóa, đưa nhiều giống lúa năng suất cao vào gieo trồng đi đôi với đẩy mạnh ứng dụng khoa học kỹ thuật. Trong ảnh: Sau hơn 30 năm đổi mới, từ chỗ là nước thiếu gạo, phải nhập khẩu, Việt Nam đã vươn lên trở thành nước xuất khẩu gạo đứng thứ hai thế giới. (Ảnh: TTXVN phát)

Đại hội VII,VIII

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng: Đưa Việt Nam vượt qua thử thách, đi dần vào thể ổn định và phát triển năng động, vững chắc.

Thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ VI của Đảng, công cuộc đổi mới đất nước đã đạt được những thành tựu bước đầu rất quan trọng, tình hình chính trị ổn định, nền kinh tế có những chuyển biến tích cực, đạt được những tiến bộ rõ rệt trong việc thực hiện các mục tiêu của 3 chương trình kinh tế, bước đầu hình thành nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, dân chủ xã hội ngày càng được phát huy, đời sống nhân dân bước đầu ổn định, quốc phòng được giữ vững, an ninh quốc gia được đảm bảo, quan hệ quốc tế được mở rộng…

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII từ ngày 24 đến 27/6/1991, tại Hà Nội. Đồng chí Đỗ Mười được bầu làm Tổng Bí thư của Đảng. 

Tuy nhiên, nền kinh tế vẫn còn nhiều yếu kém và khó khăn. Nhiều vẫn đề kinh tế-xã hội nóng bỏng chưa được giải quyết. Tình hình thế giới có nhiều biến động phức tạp, nhất là những biến động xảy ra ở Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu…

Ban Chấp hành Trung ương Đảng quyết định triệu tập Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII từ ngày 24 đến 27/6/1991, tại Hà Nội. Dự đại hội có 1.176 đại biểu đại diện cho 2,1 triệu đảng viên trong cả nước. Đến dự Đại hội có đoàn đại biểu của Đảng Cộng sản Liên Xô, đoàn Đảng Nhân dân Cách mạng Lào, đoàn đại biểu của Đảng Nhân dân Cách mạng Campuchia, đoàn đại biểu Đảng Cộng sản Cuba, Đảng Cộng sản Nhật Bản…

Đại hội đã kiểm điểm việc thực hiện Nghị quyết Đại hội VI và tổng kết kinh nghiệm bước đầu về tiến hành công cuộc đổi mới. Đó là phải giữ vững định hướng Xã hội Chủ nghĩa trong quá trình đổi mới; phải đổi mới toàn diện, đồng bộ và triệt để nhưng phải có bước đi, hình thức và cách làm phù hợp; phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần phải đi đôi với tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước về kinh tế-xã hội.

Đại hội thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội; Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế-xã hội đến năm 2000; Báo cáo xây dựng Đảng và sửa đổi bổ sung một số điểm trong Điều lệ Đảng.

Cương lĩnh chính trị nêu rõ những đặc trưng của xã hội Xã hội Chủ nghĩa mà nhân dân xây dựng và những phương hướng cơ bản để xây dựng thành công Xã hội Chủ nghĩa ở Việt Nam.

Đại hội khẳng định tư tưởng Hồ Chí Minh cùng với chủ nghĩa Marx-Lenin là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hoạt động của Đảng; tư tưởng Hồ Chí Minh là sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Marx-Lenin trong điều kiện Việt Nam.

Đại hội đã quyết định phương hướng, nhiệm vụ chủ yếu trong 5 năm 1991-1995 với mục tiêu tổng quát và phương châm chỉ đạo là vượt qua khó khăn, thử thách, ổn định và phát triển kinh tế-xã hội, tăng cường ổn định chính trị, đẩy lùi tiêu cực và bất công xã hội, đưa Việt Nam cơ bản ra khỏi tình trạng khủng hoảng.

Đại hội bầu Ban Chấp hành Trung ương Đảng gồm 146 ủy viên. Đồng chí Đỗ Mười được bầu làm Tổng Bí thư của Đảng. Các đồng chí: Nguyễn Văn Linh, Phạm Văn Đồng, Võ Chí Công được giao trách nhiệm là Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng: Tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước

Đại hội lần thứ VIII của Đảng diễn ra từ ngày 28/6 đến 1/7/1996, tại thủ đô Hà Nội, với sự tham dự của 1.196 đại biểu đại diện cho 2 triệu đảng viên trong toàn Đảng và hơn 40 đoàn quốc tế.

Đại hội tổng kết chặng đường 10 năm đổi mới, rút ra một số bài học chủ yếu và xác định rõ giai đoạn 1996-2000 là bước rất quan trọng của thời kỳ phát triển mới – đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Nhiệm vụ của nhân dân Việt Nam là tập trung mọi lực lượng, tranh thủ thời cơ, vượt qua thử thách, đẩy mạnh công cuộc đổi mới một cách toàn diện và đồng bộ, tiếp tục phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng Xã hội Chủ nghĩa.

Phấn đấu đạt và vượt mục tiêu đề ra trong Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế-xã hội đến năm 2000, đó là tăng trưởng kinh tế nhanh, hiệu quả cao và bền vững đi đôi với giải quyết các vấn đề bức xúc về xã hội, đảm bảo an ninh quốc phòng, cải thiện đời sống nhân dân, nâng cao tích lũy từ nội bộ nền kinh tế, tạo tiền đề vững chắc cho bước phát triển cao hơn vào đầu thế kỷ sau.

Tổng Bí thư Đỗ Mười thăm cảng Quy Nhơn (Bình Định) ngày 7/2/1996. (Ảnh: Xuân Lâm/TTXVN)
Tổng Bí thư Đỗ Mười thăm cảng Quy Nhơn (Bình Định) ngày 7/2/1996. (Ảnh: Xuân Lâm/TTXVN)

Đồng thời, kiên quyết giữ vững ổn định chính trị và định hướng Xã hội Chủ nghĩa trong quá trình phát triển; tạo chuyển biến căn bản trong sự nghiệp xây dựng, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của đảng; tiếp tục xây dựng, hoàn thiện Nhà nước, trọng tâm là cải cách nền hành chính, mở rộng dân chủ, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân; mở rộng quan hệ đối ngoại, củng cố và nâng cao vị thế Việt Nam trên trường quốc tế.

Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Trung ương gồm 170 đồng chí. Ban Chấp hành Trung ương bầu Bộ Chính trị gồm 19 đồng chí. Đồng chí Đỗ Mười được bầu lại làm Tổng Bí thư của Đảng. Các đồng chí Nguyễn Văn Linh, Phạm Văn Đồng, Võ Chí Công làm Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng.

Tại Hội nghị lần thứ 4 khóa VIII (từ ngày 23 đến 29/12/1997), Ban Chấp hành Trung ương Đảng chấp nhận đề nghị của Tổng Bí thư Đỗ Mười về việc chuyển giao chức vụ Tổng Bí thư; bầu đồng chí Lê Khả Phiêu làm Tổng Bí thư của Đảng.

Ban Chấp hành Trung ương suy tôn ba đồng chí Đỗ Mười, Lê Đức Anh, Võ Văn Kiệt làm Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng./.

Ngày 26/12/1997, tại Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành trung ương Đảng khoá VIII, đồng chí Lê Khả Phiêu được bầu làm Tổng Bí thư. Trong ảnh: Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu thăm hỏi công nhân phân xưởng đóng mới nhà máy xe lửa Gia Lâm, ngày 27/8/2000. (Ảnh: Anh Tôn/TTXVN)
Ngày 26/12/1997, tại Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành trung ương Đảng khoá VIII, đồng chí Lê Khả Phiêu được bầu làm Tổng Bí thư. Trong ảnh: Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu thăm hỏi công nhân phân xưởng đóng mới nhà máy xe lửa Gia Lâm, ngày 27/8/2000. (Ảnh: Anh Tôn/TTXVN)

Đại hội IX, X

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng: Phát huy sức mạnh toàn dân tộc, tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa

Với khẩu hiệu hành động: “Trí tuệ, Dân chủ, Đoàn kết, Đổi mới”, Đại hội lần thứ IX của Đảng họp từ ngày 19/4 đến 22/4/2001 tại Hà Nội. Dự Đại hội có 1.168 đại biểu thay mặt cho hơn 2,4 triệu đảng viên trong toàn Đảng và 35 đoàn đại biểu quốc tế.

Với khẩu hiệu hành động: “Trí tuệ, Dân chủ, Đoàn kết, Đổi mới,” Đại hội lần thứ IX của Đảng họp từ ngày 19/4 đến 22/4/2001 tại Hà Nội. Đồng chí Nông Đức Mạnh được Ban Chấp hành Trung ương bầu làm Tổng Bí thư của Đảng.

Đại hội có nhiệm vụ lịch sử nhìn lại chặng đường 70 năm cách mạng Việt Nam; tổng kết 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng VIII, 15 năm đổi mới đất nước, 10 năm thực hiện Chiến lược kinh tế-xã hội; rút ra bài học kinh nghiệm sâu sắc từ đó phát triển và hoàn thiện đường lối cách mạng cho thời kỳ tới là phấn đấu nâng cao hơn nữa năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, động viên và phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Đại hội khẳng định, trong thế kỷ XX, thắng lợi của Cách mạng tháng Tám 1945, với sự ra đời của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, thắng lợi của các cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc, thắng lợi của sự nghiệp đổi mới và từng bước đưa đất nước quá độ lên Chủ nghĩa Xã hội là những thắng lợi vĩ đại.

Tháng 4/2001, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng, đồng chí Nông Đức Mạnh được bầu làm Tổng Bí thư. Năm 2006, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng, đồng chí Nông Đức Mạnh tiếp tục được bầu giữ chức Tổng Bí thư. Trong ảnh: Ngày 24/6/2009, trong chuyến thăm và tiếp xúc cử tri tại Thái Nguyên, Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh gặp gỡ và nói chuyện với cán bộ công nhân nhà máy Xi măng Quang Sơn. (Ảnh: Đinh Xuân Tuân/TTXVN)
Tháng 4/2001, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng, đồng chí Nông Đức Mạnh được bầu làm Tổng Bí thư. Năm 2006, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng, đồng chí Nông Đức Mạnh tiếp tục được bầu giữ chức Tổng Bí thư. Trong ảnh: Ngày 24/6/2009, trong chuyến thăm và tiếp xúc cử tri tại Thái Nguyên, Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh gặp gỡ và nói chuyện với cán bộ công nhân nhà máy Xi măng Quang Sơn. (Ảnh: Đinh Xuân Tuân/TTXVN)

Thực hiện Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế-xã hội (1991-2000) và thực hiện Nghị quyết Đại hội VIII, chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn và rất quan trọng. Đại hội cũng thẳng thắn chỉ ra những yếu kém, khuyết điểm cần khắc phục, sửa chữa.

Đại hội đã thông qua Báo cáo Chính trị với chủ đề “Phát huy sức mạnh toàn dân tộc, tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam Xã hội Chủ nghĩa.”

Về con đường đi lên Chủ nghĩa Xã hội ở Việt Nam, Đại hội IX khẳng định Đảng và nhân dân quyết tâm xây dựng đất nước Việt Nam theo con đường Xã hội Chủ nghĩa trên nền tảng chủ nghĩa Marx-Lenin và tư tưởng Hồ Chí Minh.

Về đường lối phát triển kinh tế-xã hội, Nghị quyết Đại hội IX của Đảng nêu rõ: Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, đưa Việt Nam trở thành nước công nghiệp, ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất, đồng thời xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp với định hướng xã hội chủ nghĩa; phát huy cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững; tăng trưởng kinh tế đi liền với phát triển văn hóa, từng bước cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ và cải thiện môi trường; kết hợp phát triển kinh tế-xã hội với tăng cường quốc phòng an ninh.

Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 10 năm 2001-2010 nhằm đưa đất nước ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, tạo nền tảng để đến năm 2020 Việt Nam cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại; nguồn lực con người, năng lực khoa học và công nghệ, kết cấu hạ tầng, tiềm lực kinh tế, quốc phòng, an ninh được tăng cường; thể chế kinh tế thị trường định hướng Xã hội Chủ nghĩa được hình thành về cơ bản; vị thế của đất nước trên trường quốc tế được nâng cao.

Đại hội bầu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX gồm 150 đồng chí. Đồng chí Nông Đức Mạnh được Ban Chấp hành Trung ương bầu làm Tổng Bí thư của Đảng.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng: Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng họp từ ngày 18 đến 25/4/2006, tại Hà Nội. Dự Đại hội có 1.176 đại biểu thay mặt cho hơn 3,1 triệu đảng viên trong toàn Đảng.

Đại hội thông qua Báo cáo Chính trị, Báo cáo về phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội 5 năm 2006-2010 và Báo cáo về công tác xây dựng Đảng của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX trình Đại hội; giao Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X căn cứ vào kết quả biểu quyết và những kết luận của Đại hội để hoàn chỉnh và chính thức ban hành.

– Thông qua toàn văn Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam đã được bổ sung, sửa đổi.

– Giao Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X và các cấp ủy, tổ chức Đảng xây dựng chương trình và kế hoạch hành động cụ thể để tổ chức thực hiện thắng lợi đường lối và những chủ trương đã nêu trong các văn kiện Đại hội.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng họp từ ngày 18 đến 25/4/2006, tại Hà Nội. Đại hội quyết định mục tiêu tổng quát là nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới.

Các văn kiện được thông qua tại Đại hội lần này là kết tinh trí tuệ và ý chí của toàn Đảng, toàn dân, là sự tổng kết sâu sắc thực tiễn và lý luận 20 năm đổi mới để tiếp tục hoàn thiện và phát triển đường lối, quan điểm đổi mới trong giai đoạn cách mạng hiện nay của đất nước.

Đại hội bầu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá X gồm 160 ủy viên chính thức và 21 ủy viên dự khuyết. Đồng chí Nông Đức Mạnh được bầu lại làm Tổng Bí thư của Đảng.

Đại hội kiểm điểm 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội IX, tổng kết 20 năm đổi mới, xác định mục tiêu phương hướng phát triển đất nước 5 năm tới.

Đại hội đánh giá, sau 20 năm đổi mới, đất nước ta đạt những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử; đồng thời nêu bật năm bài học lớn.

Đại hội quyết định mục tiêu tổng quát 5 năm tới là, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, huy động và sử dụng tốt mọi nguồn lực cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; phát triển văn hóa; thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; tăng cường quốc phòng và an ninh, mở rộng quan hệ đối ngoại; chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế; giữ vững ổn định chính trị-xã hội; sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển; tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại.

Đại hội cũng nêu rõ, thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế./.

Đại hội XI, XII

Đại hội lần thứ XI của Đảng: Tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới đất nước

Đại hội lần thứ XI của Đảng họp từ ngày 12 đến 19/1/2011, tại Thủ đô Hà Nội, với sự tham dự của 1.377 đại biểu, thay mặt cho hơn 3,6 triệu đảng viên trong toàn Đảng.

Từ thực tiễn chỉ đạo, lãnh đạo, Đại hội rút ra một số bài học kinh nghiệm. Đó là phải luôn kiên trì thực hiện đường lối và mục tiêu đổi mới, kiên định và vận dụng sáng tạo, phát triển chủ nghĩa Marx-Lenin và tư tưởng Hồ Chí Minh; coi trọng chất lượng, hiệu quả tăng trưởng và phát triển bền vững; coi trọng việc kết hợp chặt chẽ giữa tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; đặc biệt chăm lo củng cố, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh; trong chỉ đạo, lãnh đạo phải nhạy bén, kiên quyết, sáng tạo, bám sát thực tiễn.

Đại hội lần thứ XI của Đảng họp từ ngày 12 đến 19/1/2011, tại Thủ đô Hà Nội. Đồng chí Nguyễn Phú Trọng được bầu làm Tổng Bí thư của Đảng.

Đại hội thảo luận, thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011); Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 2011-2020; Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X; Điều lệ Đảng (bổ sung, sửa đổi) và nhiều văn kiện quan trọng khác.

Đại hội bầu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI gồm 175 đồng chí Ủy viên chính thức và 25 đồng chí Ủy viên dự khuyết. Tại Hội nghị lần thứ nhất, Ban Chấp hành Trung ương bầu Bộ Chính trị gồm 14 đồng chí; Ban Bí thư gồm bốn đồng chí. Đồng chí Nguyễn Phú Trọng được bầu làm Tổng Bí thư của Đảng.

Đồng chí Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa XI, khóa XII. Trong ảnh: Chiều 1/11/2019, tại Trụ sở Trung ương Đảng, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng chủ trì họp Bộ Chính trị cho ý kiến về sửa đổi, bổ sung chức năng, nhiệm vụ của Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng và Ban Nội chính Trung ương. (Ảnh: Trí Dũng/TTXVN)
Đồng chí Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa XI, khóa XII. Trong ảnh: Chiều 1/11/2019, tại Trụ sở Trung ương Đảng, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng chủ trì họp Bộ Chính trị cho ý kiến về sửa đổi, bổ sung chức năng, nhiệm vụ của Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng và Ban Nội chính Trung ương. (Ảnh: Trí Dũng/TTXVN)

Tại Hội nghị Trung ương 7 khóa XI, họp từ ngày 2 đến 11/5/2013, hai đồng chí được bầu bổ sung vào Bộ Chính trị; một đồng chí được bầu bổ sung vào Ban Bí thư.

Sau 9 ngày làm việc, Đại hội đã thảo luận sôi nổi, thẳng thắn, dân chủ và nhất trí thông qua các văn kiện rất quan trọng, có ý nghĩa chiến lược, lâu dài đối với sự phát triển của đất nước ta: Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011); Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 2011-2020; phương hướng, nhiệm vụ chính trị 5 năm 2011-2015 và Điều lệ Đảng (bổ sung, sửa đổi).

Các văn kiện được thông qua tại Đại hội lần này là sự tổng kết sâu sắc lý luận và thực tiễn 20 năm thực hiện Cương lĩnh, 10 năm thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội (2001-2010) và 5 năm thực hiện phương hướng, nhiệm vụ kinh tế-xã hội (2006-2010), là sự kết tinh trí tuệ, ý chí, nguyện vọng của toàn Đảng, toàn dân ta; là sự tiếp tục khẳng định, hoàn thiện và phát triển quan điểm, đường lối đổi mới của Đảng ta theo tinh thần chủ nghĩa Marx-Lenin và tư tưởng Hồ Chí Minh; xác định mục tiêu, nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân tộc ta trong giai đoạn phát triển mới đầy triển vọng và không ít thách thức của cách mạng nước ta từ nay đến năm 2020 và những năm tiếp theo.

Sự thống nhất ý chí của Đại hội biểu thị quyết tâm sắt đá của Đảng ta, trong những năm tới, lãnh đạo toàn Đảng, toàn dân, toàn quân phấn đấu thực hiện bằng được mục tiêu “Tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.”

Đại hội đặc biệt coi trọng và nhấn mạnh rằng, trong những năm tới, xây dựng Đảng là một nhiệm vụ trọng yếu, là nhân tố quyết định để giữ vững vai trò và nâng cao chất lượng lãnh đạo của Đảng, để Đảng thực sự xứng đáng là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc.

Đại hội lần thứ XII của Đảng: Bước vào kỷ nguyên hội nhập và phát triển

Đại hội lần thứ XII của Đảng họp từ ngày 20 đến 28/1/2016 tại Thủ đô Hà Nội, với sự tham dự của 1.510 đại biểu được tổ chức thành 68 đoàn. Đây là Đại hội có số lượng đại biểu đông nhất trong 12 kỳ Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng.

Đại hội được tổ chức sau 30 năm toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta thực hiện công cuộc Đổi mới kể từ Đại hội Đảng lần thứ VI (tháng 12/1986).

Đại hội lần thứ XII của Đảng họp từ ngày 20 đến 28/1/2016 tại Thủ đô Hà Nội. Văn kiện Đại hội đã xác định những nội dung quan trọng về bảo vệ vững chắc Tổ quốc; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định; nâng cao hiệu quả hoạt động đối ngoại, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế.

Với phương châm: “Đoàn kết-Dân chủ-Kỷ cương-Đổi mới”, Đại hội đã thực sự phát huy dân chủ, tập trung trí tuệ, đề cao trách nhiệm, thảo luận sôi nổi, thẳng thắn và tạo được sự thống nhất cao với các Dự thảo Văn kiện của Ban Chấp hành Trung ương khoá XI trình Đại hội, gồm: Báo cáo Chính trị; Báo cáo kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội 5 năm (2016-2020); Báo cáo kiểm điểm sự lãnh đạo của Ban Chấp hành Trung ương khóa XI; Báo cáo Tổng kết thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng.

Đại hội lần thứ XII là Đại hội đầu tiên Đảng ta thực hiện Đề án: “Quy hoạch Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, các chức danh lãnh đạo chủ chốt của Đảng, Nhà nước nhiệm kỳ 2016-2021 và các nhiệm kỳ tiếp theo.”

Trên cơ sở Đề án quy hoạch cán bộ cấp chiến lược, công tác chuẩn bị nhân sự Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư và các chức danh lãnh đạo chủ chốt của Đảng, Nhà nước nhiệm kỳ 2016-2021 được tiến hành theo một quy trình chặt chẽ, bài bản, khoa học, thận trọng và thực sự phát huy dân chủ, giữ vững kỷ cương, tạo được sự thống nhất cao của Ban Chấp hành Trung ương khoá XI và của các đại biểu Đại hội.

Với tinh thần trách nhiệm cao, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng đã bầu ra Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa mới gồm 200 đồng chí, trong đó 180 đồng chí Ủy viên chính thức, 20 đồng chí Ủy viên dự khuyết.

Tại Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII đã họp để bầu Bộ Chính trị, Ban Bí thư Trung ương Đảng, Ủy ban Kiểm tra Trung ương. Đồng chí Nguyễn Phú Trọng được tín nhiệm bầu tiếp tục giữ chức vụ Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII.

Lần đầu tiên Đảng ta làm quy hoạch cán bộ cấp chiến lược, tạo thuận lợi cho công tác nhân sự, để Đại hội XII thành công tốt đẹp.

Đại hội lần thứ XII được đánh giá là Đại hội Đổi mới lần hai.

Kế thừa và phát huy các nghị quyết Đại hội Đảng trước đây, các văn kiện Đại hội lần này chứa đựng nhiều nội dung tư tưởng mới, xác định lộ trình, mục tiêu và những nhiệm vụ trọng tâm nhằm đưa đất nước phát triển toàn diện trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại.

Trong đó, Đảng ta xác định: Phát triển kinh tế-xã hội là trung tâm; xây dựng Đảng là then chốt; xây dựng văn hóa, con người làm nền tảng tinh thần; tăng cường quốc phòng, an ninh là trọng yếu, thường xuyên.

Văn kiện Đại hội đã xác định những nội dung quan trọng về bảo vệ vững chắc Tổ quốc; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định; nâng cao hiệu quả hoạt động đối ngoại, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, dân chủ xã hội chủ nghĩa; xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng.

Trong gần 35 năm đổi mới, kinh tế Việt Nam đã đạt tốc độ tăng trưởng cao hơn hẳn thời kỳ trước đổi mới. ảnh: Cụm công nghiệp khí - điện - đạm Cà Mau mỗi năm đóng góp trên 40% nguồn thu ngân sách và tạo ra hơn 30% việc làm cho lao động địa phương tại tỉnh Cà Mau. (Ảnh: Huỳnh Thế Anh/TTXVN)
Trong gần 35 năm đổi mới, kinh tế Việt Nam đã đạt tốc độ tăng trưởng cao hơn hẳn thời kỳ trước đổi mới. ảnh: Cụm công nghiệp khí – điện – đạm Cà Mau mỗi năm đóng góp trên 40% nguồn thu ngân sách và tạo ra hơn 30% việc làm cho lao động địa phương tại tỉnh Cà Mau. (Ảnh: Huỳnh Thế Anh/TTXVN)

Nhấn mạnh mục tiêu phát triển nhanh, bền vững, phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại, báo cáo chính trị tại Đại hội xác định rõ: Cần tiếp tục đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế; đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức; hoàn thiện thể chế, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

Đây là một chủ trương lớn, quan trọng, được nêu ra từ Đại hội XI của Đảng. Tuy nhiên, để tiếp tục đẩy mạnh quá trình này trong thời gian tới, cần kết hợp có hiệu quả phát triển chiều rộng với chiều sâu, nâng cao chất lượng tăng trưởng và sức cạnh tranh trên cơ sở nâng cao năng suất lao động, ứng dụng tiến bộ khoa học-công nghệ, đổi mới và sáng tạo.

Bên cạnh đó, cần đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục, đào tạo; phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; tăng cường tiềm lực và đẩy mạnh ứng dụng khoa học, công nghệ; xây dựng và phát triển văn hóa, con người; quản lý phát triển xã hội, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường, chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu.

Trong đó, mục tiêu trọng yếu của quốc phòng an ninh là kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ công cuộc đổi mới, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa; bảo vệ lợi ích quốc gia-dân tộc; bảo vệ nền văn hóa dân tộc; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định chính trị, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội.

Ưu tiên cao nhất trong thực hiện đường lối đối ngoại là bảo đảm lợi ích tối cao của quốc gia-dân tộc, thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa dạng hóa, đa phương hóa trong quan hệ đối ngoại; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế… giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển, nâng cao vị thế, uy tín của đất nước.

Tại Đại hội lần này, công tác xây dựng Đảng được đề cập ở vị trí đầu tiên trong tiêu đề của báo cáo Chính trị, là nhiệm vụ đầu tiên trong 6 nhiệm vụ trọng tâm của cả nhiệm kỳ, cho thấy Đảng ta nhận thức rõ vị trí đặc biệt quan trọng của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong tình hình hiện nay.

Trước yêu cầu, nhiệm vụ nặng nề của thời kỳ phát triển mới, Đại hội xác định phải kiên quyết, kiên trì tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI; tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến,” “tự chuyển hóa;” đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu; tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, đủ năng lực, phẩm chất và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ./.

Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng và Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc với các đại biểu dự bế mạc Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 15. (Ảnh: Trí Dũng/TTXVN)
Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng và Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc với các đại biểu dự bế mạc Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 15. (Ảnh: Trí Dũng/TTXVN)