Từ chiều 18 đến hết ngày 20 – 4 –2006, Đại hội thảo luận phần văn kiện. Đã có 1.553 lượt ý kiến phát biểu ở đoàn và 29 ý kiến ở hội trường. Không khí thảo luận rất sôi nổi, liên tục có tranh luận. Nội dung các ý kiến rất phong phú, thẳng thắn, tâm huyết.
(Do đồng chí Nguyễn Phú Trọng trình bày ngày 24 tháng 4 năm 2006)
Kính thưa Đoàn Chủ tịch,
Thưa các đồng chí,
Từ chiều 18 đến hết ngày 20 – 4 –2006, Đại hội thảo luận phần văn kiện. Đã có 1.553 lượt ý kiến phát biểu ở đoàn và 29 ý kiến ở hội trường. Không khí thảo luận rất sôi nổi, liên tục có tranh luận. Nội dung các ý kiến rất phong phú, thẳng thắn, tâm huyết.
Hầu hết các ý kiến nhất trí cao với nội dung các báo cáo, cho rằng các báo cáo được chuẩn bị công phu, dân chủ, nội dung thể hiện tính chiến đấu, tính tổng kết cao; kết cấu hợp lý, văn phong sáng sủa, ngắn gọn, dễ hiểu; sau khi tiếp thu ý kiến của đại hội đảng bộ các cấp, ý kiến của đảng viên, cán bộ và nhân dân, chất lượng các báo cáo được nâng lên rõ rệt, nhất là những nội dung lớn. Nhiều ý kiến cho rằng, việc công bố dự thảo Báo cáo chính trị để lấy ý kiến toàn Đảng, toàn dân trước Đại hội là một việc làm rất hay, rất đúng, làm cho Báo cáo chính trị thực sự là kết qủa đóng góp trí tuệ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta.
Các ý kiến phát biểu tại Đại hội đã phân tích làm sáng tỏ, sâu sắc thêm và bổ sung nhiều nội dung quan trọng, cả trên quan điểm chung và trên từng lĩnh vực cụ thể. Một số ý kiến cho rằng cần xem lại một số nhận định, một số chi tiết để bảo đảm tính chính xác, thống nhất giữa các báo cáo, cũng như giữa các phần trong mỗi báo cáo, tránh mâu thuẫn, thiếu nhất quán.
Đoàn Chủ tịch đề nghị Đại hội cho tiếp thu những ý kiến hợp lý, xác đáng để hoàn chỉnh các văn kiện Đại hội, đồng thời để chỉ đạo trong hoạt động thực tiễn. Đối với một số vấn đề khó, còn có ý kiến khác nhau, xin cho ghi nhận để tiếp tục nghiên cứu kỹ hơn sau Đại hội X. Những kiến nghị sửa đổi một số từ ngữ, sắp xếp lại câu chữ hoặc chữa một số lỗi văn phạm, xin giao cho Bộ Chính trị khoá X chỉ đạo sửa chữa, hoàn thiện trước khi công bố chính thức.
Dưới đây, Đoàn Chủ tịch xin trình bày rõ thêm một số vấn đề lớn, quan trọng để Đại hội xem xét, quyết định:
1. Về chủ đề Đại hội X
Nhiều ý kiến nhất trí với chủ đề Đại hội, cho rằng chủ đề này đã thể hiện đầy đủ, ngắn gọn, súc tích và có tính khái quát cao, nêu rõ cả mục tiêu, động lực trước yêu cầu phát triển của cách mạng nước ta và của thời đại; khẳng định quyết tâm của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta trong nhiệm kỳ tới.
Tuy nhiên, có ý kiến cho rằng chủ đề nêu như hiện nay chưa đáp ứng được mong mỏi của đảng viên, nhân dân; chưa mạnh mẽ và chưa tạo ra được sức đột phá mới. Một số ý kiến đề nghị bổ sung, sửa đổi cụ thể như sau:
- Có ý kiến đề nghị bổ sung ý: “giữ vững bản chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh”, vì đây là vấn đề có tính nguyên tắc của Đảng.
- Ý kiến khác đề nghị thêm những cụm từ như: “theo định hướng xã hội chủ nghĩa”, “đại đoàn kết toàn dân tộc”, “đẩy mạnh chỉnh đốn, xây dựng Đảng”, “giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng”. Có ý kiến đề nghị nên nói “Nâng cao năng lực cầm quyền của Đảng”.
- Có ý kiến đề nghị phải nhấn mạnh vấn đề “nâng cao sức chiến đấu của Đảng”; ý kiến khác đề nghị bỏ bớt 4 từ “và sức chiến đấu”, vì “năng lực lãnh đạo” đã bao gồm cả “sức chiến đấu rồi”. Có ý kiến đề nghị viết “phát huy cao độ sức mạnh toàn dân tộc”, “Tiếp tục đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới”, “kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng”...
- Một số ý kiến đề nghị xem lại từ “sớm” trong “sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển”, vì từ này mới thể hiện định tính, chưa có định lượng, chưa biết “sớm” là như thế nào. Viết “sớm” có vẻ “mềm” quá, nên thay bằng từ “ nhanh chóng” hoặc “quyết tâm”. Cụm từ “kém phát triển” có nghĩa tiêu cực, nên thay bằng cụm từ “đưa nước ta trở thành nước phát triển”, “đưa nước ta thành nước công nghiệp hoá, hiện đại hoá”.
Đoàn Chủ tịch xin có ý kiến như sau:
Chủ đề Đại hội là tư tưởng chỉ đạo định hướng hoạt động của Đảng, xác định nhiệm vụ trọng tâm trong mỗi thời kỳ nhất định. Vì vậy phải ngắn gọn, tập trung nêu bật những thành tố quan trọng nhất, những định hướng lớn nhất, có tính chỉ đạo tư tưởng hành động của toàn Đảng, toàn dân ta những năm tới. Trong chủ đề, không thể đưa vào quá nhiều nội dung, vả lại, bổ sung bao nhiêu cũng không đủ, càng làm phân tán chủ đề. Bốn thành tố của chủ đề Đại hội (cũng là tiêu đề của Báo cáo chính trị) hiện nay đã thể hiện được tinh thần đó:
- Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng là thành tố đầu tiên, có ý nghĩa hết sức quan trọng. Trong tình hình hiện nay, cơ hội và thách thức đan xen nhau, rất nhiều vấn đề mới đặt ra, hơn lúc nào hết chúng ta phải kiên định sự lãnh đạo của Đảng, chăm lo xây dựng Đảng, làm cho Đảng ta ngày càng giàu trí tuệ, trong sạch, vững mạnh. Những ý kiến thảo luận tại Đại hội đảng bộ các cấp cũng như ý kiến đóng góp của cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân vừa qua bày tỏ sự quan tâm sâu sắc đến công tác xây dựng Đảng, mong muốn Đảng ta phải không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu, chống cho được tham nhũng, tiêu cực, để lãnh đạo đất nước tiếp tục đi lên. Nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng là nâng cao năng lực hoạch định đường lối, chính sách; năng lực tổ chức chỉ đạo thực hiện; tổng kết lý luận – thực tiễn, tạo thống nhất nhận thức và hành động trong Đảng; lãnh đạo Mặt trận và các đoàn thể quần chúng, tăng cường mối quan hệ gắn bó mật thiết với nhân dân (nếu chỉ nói năng lực cầm quyền thì chưa bao quát được hết các lĩnh vực lãnh đạo của Đảng). Nâng cao sức chiến đấu của Đảng là làm cho từng cán bộ, đảng viên, từng tổ chức và cấp uỷ đảng, nói chung là toàn Đảng phải có ý chí phấn đấu vươn lên, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao; thường xuyên rèn luyện phẩm chất đạo đức, không nể nang, né tránh, “dĩ hoà vi quý”; kiên quyết đấu tranh với những hiện tượng tiêu cực, tham nhũng, suy thoái ở ngay trong bản thân mỗi đảng viên, ở trong tổ chức đảng, cơ quan nơi mình sinh hoạt, công tác, ở trong Đảng và trong xã hội, dũng cảm đấu tranh chống các tư tưởng, quan điểm và hành động sai trái, thù địch.
- Phát huy sức mạnh toàn dân tộc là thành tố thứ hai của chủ đề, chỉ rõ yêu cầu phải động viên đến cao độ sức mạnh của mọi tầng lớp nhân dân, của khối đại đoàn kết dân tộc, của đồng bào trong nước và người Việt Nam định cư ở nước ngoài, của mọi lĩnh vực hoạt động trên đất nước ta; giải phóng mọi tiềm năng, phát huy mọi nguồn lực, mọi thành phần kinh tế; phát huy sức mạnh của truyền thống, lịch sử, văn hoá dân tộc và ý chí kiên cường của người Việt Nam để thực hiện bằng được mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
- Đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới thể hiện yêu cầu tiếp tục đổi mới một cách mạnh mẽ và đồng bộ hơn trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội; từ tư duy, nhận thức đến hoạt động thực tiễn; từ kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội đến quốc phòng, an ninh, đối ngoại; từ hoạt động của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân, các tổ chức chính trị – xã hội; từ hoạt động của cấp trung ương đến hoạt động của địa phương, cơ sở.
- Sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển là mục tiêu trực tiếp của nhiệm kỳ 2006 – 2010. Đại hội IX đã đề ra Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 10 năm (2001 - 2010) nhằm “đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển”. Đại hội X nêu quyết tâm sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, hàm ý phấn đấu hoàn thành chiến lược nói trên trước năm 2010. Đây là điều mong mỏi thiết tha, là đòi hỏi bức xúc của toàn Đảng, toàn dân ta. Nêu “sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển” không có nghĩa tiêu cực, bi quan, trái lại, đã thể hiện sự nhìn nhận nghiêm túc, khách quan về tình hình đất nước hiện nay, cổ vũ nhân dân ta vươn lên với tinh thần tự tôn dân tộc và quyết tâm cao để đưa đất nước ta thoát khỏi tình trạng kém phát triển, có nghĩa là thoát khỏi tình trạng thu nhập bình quân đầu người thấp, chỉ số phát triển con người thấp và tình trạng kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội lạc hậu, thiếu thốn. Cũng cần nói thêm rằng, mục tiêu đó là có tính khả thi. Bởi vì theo tính toán của các cơ quan chức năng, nếu chúng ta thực hiện được mức tăng GDP 7,5 – 8%/năm thì đến năm 2009 nước ta sẽ đạt mức GDP bình quân đầu người trên 950 USD, tức là đạt mục tiêu ra khỏi tình trạng nước đang phát triển có thu nhập thấp (theo quy chuẩn của Liên hợp quốc).
Vì vậy, Đoàn Chủ tịch xin kiến nghị:
Đại hội cho khẳng định chủ đề của Đại hội X là: “Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển” (Ban Chấp hành Trung ương khoá IX biểu quyết với tỉ lệ 90,7% tán thành).
2. Về đánh giá thực hiện Nghị quyết Đại hội IX của Đảng và nhìn lại 20 năm đổi mới
Hầu hết các ý kiến đồng tình với đánh giá 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội IX và kết quả 20 năm đổi mới, cho rằng phần này viết sát, đúng, chặt chẽ, toàn diện, súc tích, phù hợp với thực tiễn đất nước.
Tuy nhiên, cũng có ý kiến đề nghị chỉ nên nhận định 5 năm qua “đã đạt được một số thành tựu quan trọng” và không nên nói thành tựu 20 năm đổi mới “có ý nghĩa lịch sử”, vì như thế là chủ quan, quá nhấn mạnh thành tích.
Một số ý kiến đề nghị trong đánh giá thực hiện Nghị quyết Đại hội IX, cần dựa vào các chỉ tiêu của Đại hội để tránh cảm tính. Ví dụ chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế bình quân đã đạt kế hoạch 7,5%/năm, song vẫn nhận định là “chưa tương xứng với khả năng”. Nên xem lại nhận định “nền kinh tế đã vượt qua thời kỳ suy giảm”. Có ý kiến cho rằng, nông nghiệp, nông thôn và nông dân là vấn đề chiến lược của Đảng, nhưng văn kiện đề cập chưa sâu, chưa làm rõ những thành tựu cũng như yếu kém trong lĩnh vực này.
Về 20 năm đổi mới, một số ý kiến đề nghị cần nhấn mạnh mặt trái của cơ chế thị trường xâm nhập quá nhanh, nhưng các giải pháp khắc phục còn chắp vá, chưa theo kịp thực tế; đề nghị đánh giá rõ hơn 4 nguy cơ và dự báo hậu quả do các nguy có đó gây ra để có biện pháp khắc phục, đồng thời bổ sung thêm một nguy cơ nữa là phân hoá giàu – nghèo ngày càng lớn, dẫn đến nguy cơ gây mất ổn định xã hội. Cần bổ sung bài học chống quan liêu, tham nhũng, thoái hoá, biến chất của cán bộ, đảng viên, bài học về công tác cán bộ; về giữ vững ổn định chính trị, thực hiện dân chủ, v.v..
Đoàn Chủ tịch xin có ý kiến như sau:
- Trong nhiệm kỳ Trung ương khoá VIII (1996 - 2000), do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế – xã hội ở Đông Nam Á và Đông Á (1997 - 1999), nền kinh tế nước ta suy giảm, chỉ đạt tốc độ tăng trưởng bình quân 7%/năm. Đến nhiệm kỳ Trung ương khoá IX, tổng sản phẩm trong nước (GDP) 5 năm (2001 - 2005) tăng bình quân 7,51%/năm. Năm 2005, mặc dù gặp nhiều khó khăn do thiên tai, dịch bệnh, giá xăng dầu thế giới biến động lớn, nền kinh tế nước ta vẫn có sự khởi sắc mới: tốc độ tăng trưởng là 8,4%/năm, đạt mức Quốc hội đề ra; tổng GDP ước đạt 838.000 tỉ đồng, thu nhập bình quân đầu người đạt hơn 10 triệu đồng (khoản 640 USD). Dư luận quốc tê cho rằng, mức tăng trưởng như vậy là khá cao trong khu vực. Có tổ chức quốc tế đánh giá mức tăng trưởng của ta là “ngoạn mục”. Đặc biệt, Liên hợp quốc nhận xét Việt Nam đã đạt sớm trước 10 năm mục tiêu xoá đói giảm nghèo trong việc thực hiện “Mục tiêu Thiên niên kỷ” do Liên hợp quốc đề ra. Cuối năm 2005, tỉ lệ hộ nghèo ở nước ta còn 7% (theo chuẩn Việt Nam cho giai đoạn 2001 - 2005), kế hoạch là 10%.
Vì vậy, Báo cáo chính trị viết “nền kinh tế đã vượt qua thời kỳ suy giảm, đạt tốc độ tăng trưởng khá cao và phát triển tương đối toàn diện” là phù hợp.
- Công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo chính thức được tính từ Đại hội VI (năm1986), đến nay (năm 2006) vừa tròn 20 năm. Sau 20 năm, chúng ta có điều kiện nhìn lại đầy đủ hơn, toàn diện hơn quá trình đổi mới với tất cả những thành tựu và hạn chế. Vì vây, Ban Chấp hành Trung ương khoá IX đã quyết định tiến hành tổng kết 20 năm đổi mới để rút ra những bài học kinh nghiệm, lý giải, kết luận một số vấn đề lý luận – thực tiễn nhằm đẩy mạnh công cuộc đổi mới. Báo cáo tổng kết 20 năm đổi mới đã cung cấp luận cứ khoa học cho việc soạn thảo các văn kiện Đại hội X của Đảng. Phần tổng kết, đánh giá 20 năm đổi mới đã được Ban Chấp hành Trung ương khoá IX thông qua và công bố rộng rãi.
Thực tế cho thấy, 20 năm đổi mới đã làm thay đổi bộ mặt đất nước và cải thiện rõ rệt đời sống nhân dân. Điều đó, mỗi chúng ta, mỗi người dân, mỗi gia đình Việt Nam đều cảm nhận được một cách sâu sắc. Dư luận thế giới thừa nhận và đánh giá cao thành tựu đổi mới của Việt Nam. Điều rất quan trọng là sau 20 năm đổi mới, Đảng ta đã có sự nhận thức đúng hơn, bổ sung, phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội trên một loạt vấn đề, đồng thời vận dụng sáng tạo, phù hợp thực tiễn Việt Nam. Tư duy lý luận của Đảng có bước tiến mới. Đến nay, mặc dù còn không ít vấn đề phải tiếp tục nghiên cứu sâu hơn, nhưng qua 20 năm đổi mới, Đảng ta đã bước đầu hình thành được trên những nét cơ bản một hệ thống quan điểm lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, làm cơ sở khoa học cho đường lối của Đảng.
Vì vậy, Đoàn Chủ tịch xin kiến nghị:
Đại hội cho khẳng định: việc thực hiện Nghị quyết Đại hội IX “đã đạt những thành tựu rất quan trọng”. Công cuộc đổi mới ở nước ta “đã đạt những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử” (Ban Chấp hành Trung ương khoá IX biểu quyết với 93,6% tán thành).
3. Về các “nguy cơ”
Một số ý kiến đề nghị cần nêu lại “bốn nguy cơ” mà Đại hội IX của Đảng đã nêu, vì các nguy cơ này hiện nay vẫn còn tồn tại và có mặt phát triển rất đáng lo ngại. Có ý kiến cho rằng, tham nhũng không còn là một nguy cơ nữa mà đã là một thực tế, một quốc nạn; tụt hậu xa về kinh tế cũng không phải là một nguy cơ, mà là một thực tế, trong Đảng ta không có “nguy cơ chệch hướng”, nêu lên nguy cơ đó làm kìm hãm sự năng động, sáng tạo của cán bộ, đảng viên, gây tâm lý rụt rè, ngần ngại trong hoạt động thực tiễn vì sợ “chệch hướng”.
Đoàn Chủ tịch nhận thấy:
Các Đại hội gần đây của Đảng nêu “bốn nguy cơ” là hàm ý chỉ ra những thách thức, những vấn đề nếu không được giải quyết tốt thì có thể đe doạ sự sống còn của chế độ; và đó là thực tế khách quan. Đến nay những nguy cơ đó vẫn tồn tại, thậm chí có một số mặt gay gắt hơn. Nguy cơ “chệch hướng xã hội chủ nghĩa” là có thật, chúng ta không được mơ hồ, mất cảnh giác. Tuy nhiên, để tránh gây tranh cãi không cần thiết về thế nào là nguy cơ, có mấy nguy cơ, Báo cáo chính trị không dùng cụm từ “bốn nguy cơ” mà nói thẳng nội hàm của các nguy cơ, các thách thức đối với nhân dân ta như sau:
“Nước ta đang đứng trước nhiều thách thức lớn, đan xen nhau, tác động tổng hợp và diễn biến phức tạp, không thể coi thường bất cứ thách thức nào. Nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới vẫn tồn tại. Tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, gắn với tệ quan liêu tham nhũng, lãng phí là rất nghiêm trọng. Những biểu hiện xa rời mục tiêu của chủ nghĩa xã hội chưa được khắc phục. Các thế lực thù địch thực hiện âm mưu “diễn biến hoà bình”, gây bạo loạn lật đổ, sử dụng các chiêu bài “dân chủ”, “nhân quyền” hòng làm thay đổi chế độ chính trị ở nước ta”.
Đoàn Chủ tịch xin kiến nghị:
Đại hội cho giữ cách diễn đạt về các thách thức như trong Báo cáo chính trị.
4. Về chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế thời kỳ 2006 – 2010
Đa số ý kiến đồng ý chỉ tiêu nêu trong báo cáo, cho là phù hợp, có cơ sở khoa học và có tính khả thi, đồng thời cũng thể hiện được quyết tâm phấn đấu cao. Tuy nhiên, một số ý kiến cho rằng không nên nêu tới 3 mức (7,5%, 8% và trên 8%/năm). Có ý kiến cho rằng, mức tăng trưởng 7,5 – 8% là thấp, không tích cực, không thu hẹp được khoảng cách với các nước trong khu vực, thực tế 5 năm qua (2001 - 2005) chúng ta đã đạt 7,5%/năm, có năm đạt trên 8%; do đó trong 5 năm tới phải đạt 8 – 8,5%/năm. Có ý kiến đề nghị phải đạt 9 – 10%/năm trở lên. Một số ý kiến đề nghị GDP năm 2010 theo giá so sánh phải gấp 2,5 lần năm 2000 (thay cho 2,1 lần trong dự thảo).
Đoàn Chủ tịch xin có ý kiến như sau:
Chỉ tiêu tăng trưởng GDP trong 5 năm tới nêu trong Báo cáo là chỉ tiêu định hướng và đã được tính toán, cân nhắc kỹ về các yếu tố, cân đối các nguồn lực, vừa với tinh thần rất tích cực phấn đấu cao, vừa bảo đảm tính khả thi, vững chắc; vừa đáp ứng được mục tiêu tăng trưởng kinh tế, vừa phải bảo đảm thực hiện các mục tiêu về phát triển văn hoá - xã hội, bảo vệ mội trường, phát triển bền vững; tạo điều kiện cho sự phát triển trong thời kỳ trước mắt và cả cho giai đoạn tiếp theo.
Cách nêu như vậy cũng là không chốt cứng mà có độ linh hoạt cần thiết, vì bên cạnh các yếu tố nỗ lực chủ quan còn có những biến động khách quan khó lường như biến động giá cả và thị trường thế giới, cũng như điều kiện thời tiết bất lợi và dịch bệnh lớn có thể xảy ra đối với nước ta... Nếu chúng ta đạt được tốc độ tăng trưởng GDP ở mức 7,5 – 8% và phấn đấu đạt trên 8%/năm đi đôi với việc nâng cao chất lượng phát triển kinh tế – xã hội thì sẽ là thành tựu rất quan trọng.
Vì vậy, Đoàn Chủ tịch xin kiến nghị:
Đại hội cho giữ chỉ tiêu tăng trưởng GDP là “7,5 – 8%/năm và phấn đấu đạt trên 8%/năm” (Ban Chấp hành Trung ương khoá IX biểu quyết với 84,34% tán thành).
5. Về vấn đề kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Đa số ý kiến đồng tình với nội dung của phần này. Tuy nhiên, cũng có ý kiến cho rằng, nội hàm “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” chưa rõ, thực tế nhiều người chỉ nói “kinh tế thị trường”. Có ý kiến đề nghị làm rõ hơn nội hàm của “định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển kinh tế thị trường”.
Đoàn Chủ tịch có ý kiến như sau:
Nền kinh tế thị trường tồn tại trong nhiều chế độ khác nhau và việc xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa ở một nước trình độ kinh tế còn thấp kém như nước ta thì việc phát triển kinh tế thị trường là một yêu cầu khách quan. Kinh tế thị trường là một phương thức phát triển sức sản xuất để đi lên chủ nghĩa xã hội. Nhưng nền kinh tế thị trường mà chúng ta phát triển khác về bản chất so với nền kinh tế thị trường ở nhiều nước khác.
Từ tổng kết 20 năm đổi mới, chúng ta nhận thấy, chủ trương phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là đúng đắn, bước đầu mang lại những kết quả rõ rệt; đồng thời cũng đặt ra nhiều vấn đề rất mới vần tiếp tục nghiên cứu, tổng kết. Chúng ta hiểu rằng, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có nghĩa: nền kinh tế đó phải tuân theo các nguyên tắc và quy luật phổ biến của nền kinh tế thị trường, đồng thời phải mang tính định hướng xã hội chủ nghĩa và tạo ra chất lượng mới của sự phát triển. Đó là nền kinh tế được xây dựng ở một chế độ xã hội do nhân dân làm chủ, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa quản lý, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, nhằm mục tiêu đi lên chủ nghĩa xã hội.
Đến nay, có thể sơ bộ nên lên những nội dung cơ bản của định hướng xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế thị trường ở nước ta là:
- Nhằm mục tiêu thực hiện “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”; giải phóng mạnh mẽ và không ngừng phát triển sức sản xuất, nâng cao đời sống nhân dân.
- Phát triển nền kinh tế nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế Nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân.
- Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển; hình thành cấu trúc kinh tế – xã hội phát triển ổn định, bền vững; thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và thông qua phúc lợi xã hội.
- Phát huy vai trò làm chủ xã hội của nhân dân, bảo đảm vai trò quản lý, điều tiết nền kinh tế của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Việc đưa ra mô hình kinh tế tổng quát của thời kỳ quá độ ở Việt Nam là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là bước đột phá về lý luận – thực tiễn có tính sáng tạo của Đảng ta. Chúng ta không lựa chọn mô hình kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa, nhưng nền kinh tế thị trường của chúng ta cũng chưa phải là nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa đã hoàn chỉnh ngay từ đầu, mà còn phải trải qua một quá trình xây dựng rất lâu dài.
Kế tục tư duy của Đại hội IX, Báo cáo chính trị lần này đã làm sáng tỏ thêm một bước nội dung cơ bản của tính định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta và đã đạt được đa số đồng tình. Tuy nhiên, đây là vấn đề rất mới, chưa có tiền lệ; sắp tới chúng ta cần tiếp tục đi sâu nghiên cứu và tổng kết để nhận thức đầy đủ và sâu sắc hơn, giải đáp có sức thuyết phục hơn những vướng mắc trong thực tiễn.
Vì vậy, Đoàn Chủ tịch xin kiến nghị:
Đại hội cho khẳng định những nội dung về “định hướng xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế thị trường ở nước ta” trong Báo cáo chính trị.
6. Về những vấn đề xã hội bức xúc
Như trên đã trình bày, một trong những đặc trưng định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường ở nước ta là thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển. Vấn đề này được đông đảo cán bộ, đảng viên và nhân dân rất quan tâm. Trong đợt lấy ý kiến của nhân dân đóng góp cho dự thảo Báo cáo chính trị, rất nhiều ý kiến phát biểu về thực hiện công bằng xã hội, xoá đói giảm nghèo, giải quyết việc làm, giảm tốc độ tăng trưởng dân số, chăm lo đời sống nông dân, nhất là các vấn đề về giáo dục, y tế, chăm sóc sức khoẻ, chính sách đối với những người có công, với thương binh, với gia đình liệt sỹ, phòng, chống các tệ nạn xã hội... Đó là những vấn đề thiết thân đối với cuộc sống người dân, của mọi gia đình, mọi vùng trên đất nước ta. Hầu hết các ý kiến đồng tình việc gắn chiến lược phát triển kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, tích cực xoá đói giảm nghèo, khuyến khích mọi người làm giàu chính đáng...
Tại Đại hội, một số ý kiến cho rằng, cần có những giải pháp quyết liệt và đồng bộ hơn để giải quyết các vấn đề xã hội bức xúc. Có ý kiến băn khoăn thực hiện xã hội hoá cung ứng các dịch vụ công cộng, hình như Nhà nước muốn đẩy bớt những vấn đề xã hội về cho người dân phải tự giải quyết. Như thế, khó mà thực hiện được công bằng xã hội, khó bảo đảm được định hướng xã hội chủ nghĩa.
Đoàn Chủ tịch xin báo cáo như sau:
Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước đã cố gắng giải quyết nhiều vấn đề xã hội bức xúc và thu được một số kết quả tích cực, nhất là về xoá đói giảm nghèo, tạo thêm nhiều việc làm mới, chăm sóc sức khoẻ của nhân dân... Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan, việc giải quyết những vấn đề xã hội bức xúc còn chậm và chưa mạnh mẽ. Điều chưa yên tâm nhất là, nhìn chung, đời sống nông dân còn nhiều khó khăn; đồng bào các vùng nghèo, vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số chưa được hưởng nhiều thành quả của đổi mới; tình trạng phân hoá giàu nghèo giữa thành thị và nông thôn ngày càng doãng ra.
Chúng ta cần nhấn mạnh tinh thần “tích cực và tập trung giải quyết các vấn đề xã hội bức xúc” và chủ trương của Đảng ta là: Nhà nước tiếp tục tăng nguồn lực, đầu tư tập trung cho các chương trình mục tiêu quốc gia về xoá đói giảm nghèo, giải quyết việc làm; về giáo dục, y tế, văn hoá, thể dục thể thao, dân số, gia đình, trẻ em...; quan tâm các vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số; đồng thời, phát huy tiềm năng, trí tuệ và và các nguồn lực vật chất trong nhân dân, của toàn xã hội để cùng Nhà nước giải quyết các vấn đề xã hội.
Hiện nay, biên chế khối sự nghiệp công ích ở nước ta từ cấp huyện trở lên là trên 1.250.000 người và khối hành chính trên 286.000 người. Phần lớn các đơn vị công ích hoạt động theo cơ chế sự nghiệp với nguồn kinh phí chủ yếu dựa vào ngân sách Nhà nước. Việc duy trì quá lâu cơ chế này dẫn tới tình trạng hoạt động sự nghiệp công bất cập, gặp nhiều khó khăn và phát triển chậm hơn so với lĩnh vực kinh tế. Trong khi đó, nhu cầu của nhân dân về các lĩnh vực này tăng rất nhanh với đòi hỏi chất lượng cao hơn. Người sử dụng dịch vụ công cộng hiện nay, ngoài mức phí theo quy định thường phải trả thêm nhiều khoản khác thiếu minh bạch, dẫn tới nhiều hiện tượng tiêu cực, trái đạo đức nghề nghiệp. Vì vậy, cần đổi mới cơ chế quản lý và cung ứng dịch vụ công cộng theo hướng: Chuyển các cơ sở đang hoạt động theo cơ chế sự nghiệp mang nặng tính hành chính bao cấp sang cơ chế tự chủ, không bao cấp tràn lan và không nhằm mục tiêu lợi nhuận. Phát triển mạnh các cơ sở ngoài công lập; khuyến khích đầu tư trong và ngoài nước phát triển các dịch vụ công cộng. Nhà nước cùng nhân dân tăng cường giám sát, thanh tra, kiểm tra các hoạt động này, bảo đảm đúng pháp luật, nhằm cung ứng các dịch vụ công cộng cho nhân dân có hiệu quả tốt hơn.
7. Về các thành phần kinh tế
Đảng ta đã nhiều lần khẳng định đường lối phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần với những hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh đa dạng, đan xen, hỗn hợp. Các thành phần kinh tế kinh doanh theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh. Thực tiễn đã chứng minh chủ trương đó là đúng và được sự đồng tình nhất trí cao trong Đảng và nhân dân. Tuy nhiên, khi xác định các thành phần kinh tế cụ thể và vai trò của từng thành phần thì còn có nhiều ý kiến khác nhau. Vấn đề này đã được thảo luận sôi nổi tại đại hội đảng bộ các cấp và có nhiều ý kiến đóng góp của nhân dân.
Tại Đại hội này, hầu hết các ý kiến của đại biểu nhất trí với việc xác định các thành phần kinh tế như nêu trong Báo cáo chính trị. Một số ý kiến khác đề nghị giữ nguyên như ở Đại hội IX.
Đa số ý kiến tán thành “kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo”. Có ý kiến đề nghị “kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong một số ngành, lĩnh vực chủ yếu”. Nhưng có ý kiến khác cho rằng, do phát triển nhiều thành phần kinh tế và đẩy mạnh cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước thì kinh tế Nhà nước ngày càng bị thu hẹp, liệu có còn giữ vai trò chủ đạo được không? Có ý kiến băn khoăn về nội dung “kinh tế Nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân”. Có ý kiến cho rằng, phát triển kinh tế tư nhân là không sai, nhưng với chính sách như hiện nay, không có cơ chế kiểm soát chặt chẽ thì đáng lo ngại. Có ý kiến đề nghị không nên nêu thành phần kinh tế tư bản Nha nước.
Đoàn Chủ tịch xin có ý kiến như sau:
Việc phân định các thành phần kinh tế là vấn đề lớn, khó, hệ trọng và rất phức tạp, đã được Ban Chấp hành Trung ương khoá IX thảo luận, tranh luận nhiều lần với tinh thần trách nhiệm vào. Tiếp thu ý kiến của nhiều đồng chí, Ban Chấp hành Trung ương đã chỉ rõ định hướng cho việc xác định thành phần kinh tế là: Văn kiện Đại hội Đảng chỉ nên khẳng định những vấn đề nào đã rõ, đã chín muồi; còn vấn đề nào chưa đủ rõ thì tiếp tục nghiên cứu, tổng kết thực tiễn rồi bổ sung. Điều quan trọng là phải có chính sách khuyến khích mọi thành phần kinh tế cùng phát triển, không phân biệt đối xử, kỳ thị, định kiến đối với bất cứ thành phần kinh tế nào. Ban Chấp hành Trung ương khoá IX đã biểu quyết nhất trí nêu phương án để trình Đại hội về vấn đề thành phần kinh tế. Theo phương án này, ở nước ta hiện nay có các thành phần kinh tế như sau: kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân (cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân), kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Kinh tế tư nhân có vai trò quan trọng là một trong những động lực của nền kinh tế. Doanh nghiệp cổ phần ngày càng phát triển, trở thành hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh phổ biến, thúc đẩy xã hội hoá sản xuất kinh doanh và sở hữu. Còn vai trò chủ đạo của nền kinh tế nhà nước không phải thể hiện ở số lượng doanh nghiệp nhiều hay ít, tỉ trọng đóng góp GDP cao hay thấp mà ở chỗ, đó là lực lượng vật chất quan trọng để Nhà nước định hướng và điều tiết nền kinh tế, tạo môi trường và điều kiện thúc đẩy các thành phần kinh tế cùng phát triển.
Như thế, so với Đại hội IX, lần này vừa có kế thừa, vừa có bổ sung, phát triển thêm một số điểm cho phù hợp với tình hình mới (như: để chung kinh tế cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân vào thành phần kinh tế tư nhân; khẳng định vai trò kinh tế tư nhân, doanh nghiệp cổ phần; nhận thức sâu hơn nội hàm vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước,...). Đoàn Chủ tịch đề nghị Đại hội chấp nhận cho ghi như trong dự thảo.
8. Về công nghiệp hoá, hiện đại hoá
- Có ý kiến cho rằng khái niệm công nghiệp hoá, hiện đại hoá chưa rõ, chưa đưa ra được tiêu chí của một nước công nghiệp hoá để làm mục tiêu phấn đấu. Công nghiệp hoá phải gắn với hiện đại hoá. Cần đặc biệt chú ý quy hoạch và đầu tư cho từng vùng và liên kết giữa các vùng, nhất là các vùng kinh tế trọng điểm. Cần có chính sách thu hút các nguồn lực, thúc đẩy công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở các tỉnh miền núi, vùng sâu, vùng xa; có chính sách bảo vệ và sử dụng hiệu quả tài nguyên quốc gia, bảo vệ rừng; cải thiện, nâng cao đời sống người trồng rừng. Cần có cơ chế, chính sách tăng sức hấp dẫn thu hút đầu tư nước ngoài vào phát triển các lĩnh vực xây dựng và dịch vụ...
Đoàn Chủ tịch xin đề nghị:
Đại hội cho tiếp thu những ý kiến trên để bổ sung vào văn kiện và tiếp tục nghiên cứu sâu hơn để làm rõ những tiêu chí một nước công nghiệp theo hướng hiện đại trong quá trình xây dựng chiến lược phát triển đất nước giai đoạn 2010 – 2020.
- Có ý kiến cho rằng chưa nên gắn công nghiệp hoá, hiện đại hoá với phát triển kinh tế tri thức, vì 5 năm tới nước ta cơ bản vẫn là nước nông nghiệp. Ý kiến khác đề nghị nên để cụm từ “từng bước” như dự thảo trước. Không nên coi kinh tế tri thức là “chiếc đũa thần”, quá chú trọng đầu tư vào kinh tế tri thức, vì nước ta chưa có khả năng. Muốn công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát triển kinh tế tri thức thì phải phát triển giáo dục và đào tạo.
Đoàn Chủ tịch xin có ý kiến như sau:
Báo cáo chính trị nêu vấn đề “Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với phát triển kinh tế tri thức” là thể hiện bước tiến về nhận thức của Đảng ta, bắt kịp xu hướng phát triển mới của thế giới, đồng thời đáp ứng đòi hỏi của công cuộc phát triển đất nước ta trong giai đoạn mới. Hiện nay, hầu hết các nước trên thế giới đều có chiến lược phát triển kinh tế tri thức theo những cách thức phù hợp với điều kiện bên trong và xu thế chung của thời đại. Nước ta muốn thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá thì dứt khoát phải tận dụng những xu hướng và cơ hội do sự phát triển của khoa học và công nghệ hiện đại tạo ra. Phát triển nền kinh tế tri thức ở Việt Nam thực chất là thực hiện chiến lược công nghiệp hoá rút ngắn dựa trên tri thức, đẩy mạnh việc ứng dụng những thành tựu khoa học và công nghệ hiện đại ở tất cả các ngành, các lĩnh vực kinh tế, đặc biệt ở những ngành mũi nhọn, có lợi thế phát triển, làm tăng tỉ lệ giá trị gia tăng ở từng sản phẩm; giảm chi phí lao động và nguyên liệu, vật liệu; tăng chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh; đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động xã hội theo hướng hiện đại.
Những năm gần đây, thực hiện chủ trương “từng bước phát triển kinh tế tri thức” của Đại hội IX, ở nước ta đã xuất hiện những nhân tố mới, những mô hình phát triển mới dựa vào tri thức. Thí dụ: Tổng Công ty Bưu chính – viễn thông; những cánh đồng 600 triệu đồng ở xã Đoàn Thượng (Gia Lộc, Hải Dương); các cơ sở trồng hoa dựa trên công nghệ cao ở Đà Lạt (điển hình là Công ty HASFARM); những kết quả ứng dụng công nghệ mới trong các ngành thuỷ sản, công nghiệp đóng tàu biển; ở Viện Máy và dụng cụ công nghiệp (IMI), ở một số trường đại học lớn, ở Công ty phát triển phụ gia và sản phẩm dầu mỏ (AP), ở Công ty cổ phần TRAPHACO...
Như vậy, chủ trương “Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với phát triển kinh tế tri thức” là cần thiết và có tính khả thi. Có quyết tâm thực hiện chủ trương này, chúng ta mới có thể giải phóng và phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất, tạo nền tảng vật chất để đi lên.
Đoàn Chủ tịch xin đề nghị:
Đại hội cho giữ chủ trương trong Báo cáo chính trị: “Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với phát triển kinh tế tri thức”.
- Về vấn đề công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn và cải thiện đời sống nông dân, một số ý kiến cho rằng, muốn đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phải giải quyết đồng bộ các vấn đề nông nghiệp, nông thôn và nông dân. Những nội dung nêu trong Báo cáo chính trị chưa đủ rõ, chưa đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn nước ta hiện nay. Cần có quy hoạch phát triển vùng cụ thể hơn; có giải pháp mạnh hơn tạo việc làm cho nông dân vùng thiếu đất sản xuất, mở rộng ngành nghề, đào tạo nghề ở nông thôn; đẩy mạnh cơ giới hoá nông nghiệp. Nên có một bộ riêng chuyên lo về phát triển nông thôn.
Có ý kiến đề nghị cần có chính sách đầu tư phù hợp với từng vùng theo quy hoạch hợp lý; đẩy mạnh tiến trình xây dựng nông thôn mới. Quan tâm đẩy mạnh nhanh quá trình tích tụ, tập trung ruộng đất và tăng cường đầu tư cho nông nghiệp; cho thành lập hợp tác xã cổ phần ở nông thôn; cần hình thành các trung tâm giải quyết việc làm, xây dựng các khu đô thị ở nông thôn. Cần tổ chức lại sản xuất, phát triển các hình thức kinh tế trang trại, kinh tế hợp tác xã, hợp tác xã với quy mô thích hợp; quy hoạch cây trồng, vật nuôi phù hợp với sinh thái, đầu tư chuyển đổi cơ cấu sản xuất theo quy hoạch, có cơ chế, chính sách phù hợp để khuyến khích chuyển giao công nghệ; quan tâm hơn nữa đến chính sách xã hội, tạo điều kiện cho nông nghiệp, nông thôn phát triển bền vững.
Đoàn Chủ tịch xin kiến nghị:
Đại hội cho tiếp thu những ý kiến trên để bổ sung văn kiện và cụ thể hoá trong quá trình tổ chức thực hiện.
9. Về phát huy dân chủ, tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Một số ý kiến đề nghị Đảng và Nhà nước cần có cơ chế, chính sách cụ thể để phát huy dân chủ trong các lĩnh vực của đời sống xã hội và ở mọi ngành, mọi cấp, mọi tầng lớp dân cư, trong đó đặc biệt lưu ý phát huy dân chủ cơ sở. Có ý kiến đề nghị cân nhắc cụm từ “xây dựng một xã hội dân chủ..”, vì dễ gây sự hiểu lầm; nên viết rõ là “xây dựng một nền dân chủ xã hội chủ nghĩa”. Có ý kiến cho rằng phần xây dựng Nhà nước pháp quyền viết còn chung chung, chưa đủ rõ, chưa có nội dung mới. Nên xác định những nội dung, yêu cầu cơ bản của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta trong thời gian tới (tiêu chí cơ bản của Nhà nước pháp quyền và Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa).
Đoàn Chủ tịch xin có ý kiến như sau:
Phát huy dân chủ là vấn đề có ý nghĩa chiến lược đối với tiến trình phát triển của nước ta. Trong những năm đổi mới, nước ta đã có bước tiến lớn về thực thi dân chủ. Đảng, Nhà nước rất quan tâm vấn đề này và đã có nhiều chủ trương, chính sách, quy chế để phát huy dân chủ. Trên thực tế, xã hội ta ngày càng dân chủ hơn: dân chủ về chính trị (sinh hoạt trong Đảng, trong các đoàn thể nhân dân ngày càng cởi mở hơn; hoạt động của Quốc hội, hội đồng nhân dân các cấp ngày càng thực chất hơn, nhân dân tham gia đóng góp vào việc hoạc định chủ trương, đường lối của Đảng, xây dựng luật pháp của Nhà nước, bầu cử Quốc hội, hội đồng nhân dân các cấp, thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo theo quy định của pháp luật...); dân chủ về kinh tế (các thành phần kinh tế phát triển, mọi người được tự do kinh doanh, làm tất cả những gì pháp luật không cấm); dân chủ trong lĩnh vực văn hoá - xã hội (báo chí, các phương tiện truyền thông hoạt động rất sôi động; các cuộc hội thảo tranh luận thẳng thắn, sinh hoạt tôn giáo, lễ hội ngày càng phát triển...). Đó là điều không ai có thể phủ nhận. Ở đâu có dân chủ, ở đó có đoàn kết, đồng thuận, ổn định và phát triển. Tuy nhiên, tình trạng vi phạm dân chủ vẫn còn xảy ra ở nhiều nơi và lĩnh vực. Trong tình hình dân trí lên cao, đời sống mọi mặt của người dân được cải thiện, từ đó có những đòi hỏi dân chủ cao hơn là chính đáng. Mặt khác, có việc, có nơi lại có tình trạng dân chủ quá trớn, dân chủ không đi đôi với giữ kỷ cương, kỷ luật. Ta đang hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa nhằm xây dựng một Nhà nước thật sự dân chủ, của dân, do dân và vì dân, chụi sự giám sát của dân. Cán bộ, công chức phải là công bộc của dân, làm việc vì lợi ích của dân. Nhà nước quản lý mọi mặt đời sống xã hội bằng pháp luật. Mọi người, mọi tổ chức phải tôn trọng và làm theo pháp luật.
Vấn đề quan trọng sắp tới là Đảng phải chú ý phát huy dân chủ mạnh mẽ hơn nữa trên những cơ sở pháp lý minh bạch, bằng những thiết chế, cơ chế, chính sách rõ ràng. Đồng thời, phải đấu tranh với các quan điểm và hoạt động sai trái của các phần tử chống đối, thù địch lợi dụng vấn đề “dân chủ” hòng gây rối, đòi “đa nguyên, đa đảng”, thực chất là muốn xoá bỏ sự lãnh đạo của Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Đoàn Chủ tịch xin đề nghị:
Đại hội cho tiếp thu những ý kiến trên để làm rõ hơn quan điểm và chính sách của Đảng ta về phát huy dân chủ, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
10. Về phòng, chống tham nhũng
Nhiều ý kiến cho rằng, chống tham nhũng, tiêu cực là vấn đề sống còn của Đảng ta, chế độ ta. Do vậy, văn kiện Đại hội phải thể hiện rõ quyết tâm chính trị cao của toàn Đảng đấu tranh đối với tệ nạn này. Đề nghị ngay đầu nhiệm kỳ, Ban Chấp hành Trung ương khoá X cần có nghị quyết về vấn đề này; có biện pháp và cơ chế cụ thể, rõ ràng và minh bạch về phòng, chống tham nhũng.
Có ý kiến cho rằng, vấn đề tham nhũng là thuộc tính của mọi nhà nước. Ở ta, tham nhũng không chỉ xảy ra ở PMU18 mà ở nhiều đơn vị và ngành khác, tồn tại từ lâu gần như đã thành cơ chế. Vì vậy, cả hệ thống chính trị phải tham gia đấu tranh một cách có hiệu quả.
Về các giải pháp chống tham nhũng, có ý kiến nêu rõ: đấu tranh chống tham nhũng là cuộc đấu tranh rất khó khăn, phức tạp, lâu dài, cho nên phải kiên trì và có bước đi thích hợp. Trước hết, phải có các biện pháp quyết liệt chống tham nhũng ở các cơ quan bảo vệ pháp luật, những cơ quan nhà nước liên quan đến đầu tư, cấp phát vốn, chỉ tiêu ngân sách. Phải xoá bỏ cơ chế “xin – cho”, nếu còn cơ chế này thì sẽ phát sinh tiêu cực. Phải xác định nguyên tắc phân bổ kinh phí chung cho các địa phương. Đồng thời phải cải cách thủ tục hành chính, phân cấp quản lý hợp lý. Trong lĩnh vực xây dựng cơ bản, phải chấn chỉnh từ khâu dự toán, thiết kế đến thi công.
Đoàn Chủ tịch nhận thấy:
Hiện nay, tình trạng tham nhũng đã xảy ra ở nhiều ngành, nhiều lĩnh vực, kể cả một số cơ quan bảo vệ pháp luật, với tính chất rất nghiêm trọng. Vụ án tham nhũng điển hình ở PMU18 (Bộ Giao thông Vận tải) đang gây bất bình lớn trong Đảng và trong nhân dân.
Qua vụ án trên, chúng ta càng thấy được sự suy thoái nghiêm trọng về phẩm chất, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên; sự sơ hở, lỏng lẻo về quản lý của Nhà nước và những yếu kém trong việc thực hiện các cơ chế, chính sách, nhất là cơ chế kiểm tra, thanh tra, giám sát; tính chiến đấu của các tổ chức Đảng và đảng viên ở nhiều cơ quan, đơn vị rất yếu, thậm chí có nơi tê liệt. Qua vụ án, chúng ta rút ra những bài học đắt giá và đau xót về quản lý nhà nước, về công tác xây dựng Đảng; về lựa chọn, sử dụng, giám sát cán bộ; về sự bao che, nể nang đối với vụ việc tiêu cực; về những tai hại của bệnh quan liêu.
Đảng và Nhà nước ta không che giấu, né tránh khuyết điểm; trái lại, bày tỏ thái độ kiên quyết xử lý thích đáng những tổ chức và cá nhân sai phạm,hư hỏng, bất kể người đó là ai, ở cương vị nào, với cách làm bình tĩnh, hiệu quả, đúng pháp luật, không để lọt tội phạm nhưng cũng không để xảy ra oan sai. Thái độ đó được dư luận hoan nghênh.
Đại hội X thể hiện quyết tâm của Đảng ta kiên quyết phòng, chống tham nhũng, xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức thực sự trong sạch, vững mạnh, tạo ra một bước chuyển mới trong cuộc đấu tranh không khoan nhượng chống tệ tham nhũng ở nước ta, mà Ban Chấp hành Trung ương Đảng phải là những người gương mẫu, đi đầu trong cuộc đấu tranh gian khổ đó.
Đoàn Chủ tịch xin kiến nghị:
Đại hội cho tiếp thu tinh thần và những ý kiến nêu trên để chỉnh lý phần viết về đấu tranh phòng, chống tham nhũng trong văn kiện Đại hội cho sát thực tế hơn, đồng thời sau Đại hội cần có ngay những chủ trương, biện pháp cụ thể để thể hiện rõ hơn quyết tâm của toàn Đảng, toàn dân ta trên lĩnh vực này.
11. Về tổ chức, bộ máy của hệ thống chính trị
Một số ý kiến cho rằng, tổ chức, bộ máy của hệ thống chính trị còn quá cồng kềnh, chồng chéo, trùng lắp nhau, kém hiệu quả. Các cơ quan của Đảng, Quốc hội, Chính phủ có xu hướng phình ra, thêm nhiều ban, vụ, cục, phòng, viện, trung tâm..., người đông mà kết quả ít, gây khó khăn cho nhau và cho việc điều hành đất nước. Một số ban Đảng làm trùng công việc của các bộ; một số ban Đảng ở địa phương đã giải thể, nhưng ở Trung ương thì vẫn giữ. Hoạt động của hệ thống ban cán sự đảng, đảng đoàn, đảng uỷ khối... chưa được tổng kết để rút kinh nghiệm. Đề nghị Ban Chấp hành Trung ương cần có văn bản quy định trách nhiệm của người đứng đầu trong công tác quản lý cán bộ, quản lý ngành. Đẩy mạnh hơn nữa việc thành lập tổ chức đảng trong các doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Có ý kiến cho rằng, Trung ương không thực hiện nghiêm chỉnh Nghị quyết Trung ương 7 (khoá VIII) về kiện toàn tổ chức, bộ máy; không kiên quyết, còn nể nang, do dự.
Đoàn Chủ tịch nhận thấy:
Kiện toàn tổ chức, bộ máy của hệ thống chính trị là một trong những nội dung quan trọng của cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa nhằm giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, bản chất cách mạng của Nhà nước ta, mở rộng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, củng cố mối quan hệ mật thiết giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân.
Trong những năm tới, cần sắp xếp, đổi mới tổ chức, bộ máy của Đảng, đặc biệt là các ban đảng, ban cán sự đảng, đảng uỷ khối ở Trung ương và các địa phương gắn liền với kiện toàn tổ chức, bộ máy của cơ quan nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể nhân dân, bảo đảm tinh gọn, khắc phục tình trạng cồng kềnh, nhiều đầu mối, tầng nấc trung gian, chồng chéo, trùng lắp; chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của cơ quan và người đứng đầu không rõ ràng. Tổ chức cơ quan tham mưu chuyên trách của Đảng phải có chất lượng cao, đồng thời phát huy vai trò của các tổ chức đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên hoạt động trong các cơ quan nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể nhân dân.
Cải tiến lề lối làm việc, nâng cao chất lượng nghiên cứu, tham mưu, đề xuất, hướng dẫn, kiểm tra của các cơ quan tham mưu của Đảng các cấp. Tăng cường sự phối hợp giữa các ban cán sự đảng, đảng đoàn với cấp uỷ địa phương. Tích cực giảm biên chế hành chính, biên chế gián tiếp trong các cơ quan, đơn vị thuộc hệ thống chính trị và các doanh nghiệp nhà nước.
Đó là những nội dung đã được nêu trong Báo cáo chính trị. Xin đề nghị Đại hội cho khẳng định tinh thần đó.
12. Về bản chất của Đảng và cách diễn đạt về Đảng
Đa số ý kiến đồng ý: “Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của cả dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc”; cho rằng diễn đạt như thế là hợp lý, biện chứng, dễ hiểu và đúng với tình hình hiện nay. Việc dùng từ “đồng thời” là theo đúng tư tưởng của Bác Hồ. Một số ý kiến khác lại đề nghị bỏ cụm từ “đồng thời” hoặc cả cụm từ “đồng thời là đội tiên phong”,vì cho rằng cụm từ này gây cảm giác không gắn kết. Có ý kiến đề nghị cần diễn giải rõ hơn về bản chất giai cấp công nhân của Đảng; đòi hỏi Đảng phải nâng cao trí tuệ, bản lĩnh để lãnh đạo dân tộc.
Một số ý kiến khác đề nghị giữ cách diễn đạt như Điều lệ Đảng hiện hành.
Đoàn Chủ tịch có ý kiến như sau:
Trước hết, cần khẳng định dứt khoát Đảng ta là Đảng của giai cấp công nhân, mang bản chất giai cấp công nhân. Trong quá trình phát triển, dù tên gọi thế nào (Đảng Cộng sản hay Đảng Lao động) thì Đảng ta luôn luôn mang bản chất giai cấp công nhân. Bản chất giai cấp công nhân của Đảng thể hiện ở chỗ: mục tiêu, lý tưởng của Đảng là chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản; nền tảng tư tưởng của Đảng là chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh; nguyên tắc tổ chức cơ bản của Đảng là tập trung dân chủ; Đảng liên hệ mật thiết với quần chúng; lấy phê bình và tự phê bình làm quy luật phát triển,...
Tuy nhiên, Đảng ta ra đời ở một nước thuộc địa, nửa phong kiến, nông nghiệp lạc hậu, giai cấp công nhân còn nhỏ bé. Đảng ta ra đời không chỉ là sự kết hợp chủ nghĩa Mác – Lênin với phong trào công nhân mà còn với phong trào yêu nước. Đây là đặc thù Việt Nam, là sáng tạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Chính Người đã nhiều lần nói rằng Đảng ta không chỉ là Đảng của giai cấp công nhân mà còn là Đảng của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam. Trong Báo cáo chính trị tại Đại hội II của Đảng (tháng 2 - 1951), Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Đảng Lao động Việt Nam phải là người lãnh đạo sáng suốt, kiên quyết, trung thành của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, của nhân dân Việt Nam... Chính vì Đảng Lao động Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, cho nên nó phải là Đảng của dân tộc Việt Nam”. Đến tháng 1 – 1957, nói chuyện ở Trường cán bộ Công đoàn, Chủ tịch Hồ Chí Minh lại khẳng định:“Đảng là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời cũng là đội tiên phong của dân tộc”. Tháng 12 – 1961, nói chuyện với những cán bộ, đảng viên hoạt động lâu năm, Người nhắc lại: “Đảng ta là Đảng của giai cấp, đồng thời là cũng là của dân tộc”. Có lúc Người còn nói: Đảng ta là con nòi của dân tộc; lợi ích của giai cấp công nhân và của dân tộc là một.
Với tinh thần đó, Điều lệ Đảng thông qua tại Đại hội II của Đảng đã ghi: “Đảng Lao động Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động Việt Nam”.
Trên thực tế, Đảng ta ra đời, tồn tại và phát triển là vì lợi ích không chỉ của giai cấp công nhân mà còn vì lợi ích của nhân dân lao động, của toàn dân tộc. Ngoài lợi ích của giai cấp, của nhân dân, của dân tộc, Đảng ra không có lợi ích nào khác. Chính vì vậy mà Đảng ta được nhân dân thương yêu, cưu mang, đùm bọc, giúp đỡ, thừa nhận là Đảng của chính mình, trìu mến gọi Đảng là “Đảng ta”. Đó là vinh dự, là niềm tự hào lớn, không phải đảng nào trên thế giới cũng có được.
Vả chăng, lãnh tụ của Đảng ta – Chủ tịch Hồ Chí Minh, không chỉ là lãnh tụ của Đảng mà còn là lãnh tụ vĩ đại của nhân dân, của dân tộc. Người đã giải quyết rất sáng tạo, thành công, nhuần nhuyễn vấn đề giai cấp và vấn đề dân tộc; đã giương cao ngọn cờ dân tộc và giai cấp để đưa cách mạng tiến lên. Người là một chiến sỹ cộng sản kiên cường, mẫu mực, đồng thời là một nhà yêu nước nhiệt thành, Anh hùng giải phóng dân tộc, Danh nhân văn hoá kiệt xuất.
Trong giai đoạn cách mạng hiện nay, khi chúng ta nêu cao tư tưởng đại đoàn kết dân tộc, phát huy sức mạnh tổng hợp của cả dân tộc để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, thì càng cần phải quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh trong việc diễn đạt bản chất của Đảng, nhất là trong điều kiện Đảng ta đã trở thành đảng cầm quyền lãnh đạo cả dân tộc, được toàn dân thừa nhận là đội tiên phong lãnh đạo của nhân dân.
Vì vậy, Đoàn Chủ tịch đề nghị:
Đại hội cho ghi trong Báo cáo chính trị và trong Điều lệ Đảng: “Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc” (Ban Chấp hành Trung ương khoá IX biểu quyết với 78,7% số uỷ viên tán thành. Đại hội cấp tỉnh, thành phố có 72% số đại biểu tán thành).
Diễn đạt như thế vừa nói lên được bản chất giai cấp công nhân của Đảng theo chủ nghĩa Mác – Lênin, vừa nói lên được nét đặc thù của Đảng ta theo sự phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh, phù hợp với thực tế Việt Nam và đáp ứng được nguyện vọng, tình cảm của nhân dân.
Diễn đạt như thế hoàn toàn không phải là hạ thấp bản chất giai cấp của Đảng, trượt sang quan điểm “đảng toàn dân”, mà chính là hiểu bản chất giai cấp của Đảng một cách sâu sắc hơn, nhuần nhuyễn hơn. Điều đó đòi hỏi Đảng ta chẳng những phải trung thành với giai cấp công nhân, nâng cao lập trường, tư tưởng của giai cấp công nhân, mà còn phải học tập, kế thừa, phát huy truyền thống dân tộc, tăng cường đoàn kết, tập hợp nhân dân, phấn đấu vì lợi ích của giai cấp và dân tộc.
13. Vấn đề đảng viên làm kinh tế tư nhân
Đa số ý kiến nhất trí cao với vấn đề đảng viên làm kinh tế tư nhân. Tuy nhiên, có một số ý kiến như sau:
- Có ý kiến cho rằng đảng viên được làm kinh tế tư nhân, nhưng phải gương mẫu chấp hành đường lối của Đảng. Ý kiến khác cho rằng, chỉ cần chấp hành pháp luật là đủ (như mọi công dân khác) và nhấn mạnh đảng viên phải đi đầu trong làm kinh tế tư nhân.
- Một số ý kiến đồng ý để đảng viên làm kinh tế tư nhân, nhưng phải có cơ chế kiểm tra, giám sát cụ thể để ngăn ngừa nguy cơ đảng viên thoái hoá, biến chất hoặc sa vào bóc lột (quan hệ chủ - thợ) làm mất tình đồng chí. Cần có quy định giới hạn cụ thể cho đảng viên làm kinh tế tư nhân và có sự giám sát của tổ chức đảng đối với đảng viên làm kinh tế tư nhân; những cán bộ đảng, chính quyền đương chức không được làm kinh tế tư nhân.
- Có ý kiến không đồng tình để đảng viên làm kinh tế tư nhân, vì như thế là trái với lập trường giai cấp công nhân, với nguyên tắc chủ nghĩa Mác - Lênin, là khuyến khích đảng viên "bóc lột", đến lúc nào đó những đảng viên này sẽ xa rời lý tưởng của Đảng.
- Có ý kiến đề nghị Trung ương cần làm rõ cơ sở lý luận của vấn đề đảng viên làm kinh tế tư nhân, vì hiện nay các địa phương rất lúng túng trong việc giải thích chủ trương này. Có ý kiến nêu, vì sao trong dự thảo Báo cáo chính trị trước đây ghi "đảng viên làm kinh tế tư nhân không giới hạn về quy mô", nay đến Đại hội X lại bỏ cụm từ "không giới hạn về quy mô"?
Đoàn Chủ tịch xin có ý kiến như sau:
Đảng viên làm kinh tế tư nhân là một vấn đề cụ thể nhưng rất hệ trọng, vì nó liên quan đến quan điểm, đường lối cơ bản của Đảng, được đặt ra từ nhiều năm nay. Để chuẩn bị cho việc soạn thảo văn kiện Đại hội X lần này, Trung ương đã chỉ đạo Hội đồng Lý luận Trung ương và các cơ quan nghiên cứu khoa học nghiên cứu, tổng kết, hội thảo, trao đổi ý kiến với nhiều đồng chí lãnh đạo ở các địa phương. Riêng Ban Chấp hành Trung ương đã thảo luận qua 4 kỳ hội nghị. Vấn đề này cũng đã được thảo luận ở đại hội đảng bộ các cấp, được lấy ý kiến rộng rãi trong nhân dân và đã được đa số tán thành. Đó là một bước tiến quan trọng trong nhận thức của chúng ta sau 20 năm đổi mới. Tuy nhiên, như trên đã nói, đây là vấn đề rất hệ trọng, nhạy cảm, cho nên có những ý kiến khác nhau, thậm chí gay gắt là điều dễ hiểu. Sự lo lắng của một số đồng chí về sự tha hoá, biến chất của Đảng là chính đáng, rất cần lưu tâm.
Chúng ta nhận thức rằng, trong thời ký quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội, đất nước còn nghèo, phải tập trung phát triển lực lượng sản xuất, làm ra nhiều của cải cho xã hội. Muốn thế, phải huy động mọi nguồn lực, khai thác mọi tiềm năng, phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, của mọi thành phần kinh tế, thực hiện khẩu hiệu "tất cả vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh". Đảng viên phải lãnh đạo và gương mẫu thực hiện chủ trương này, một mặt làm giàu cho bản thân và gia đình bằng lao động chính đáng của mình, mặt khác phải góp phần làm giàu cho xã hội, cho đất nước. Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa do Đảng Cộng sản lãnh đạo, chúng ta không xem kinh tế tư nhân là gắn với chủ nghĩa tư bản, mà lãnh đạo kinh tế tư nhân phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, đảng viên có thể làm kinh tế tư nhân trên cơ sở gương mẫu chấp hành luật pháp, chính sách của Nhà nước, nghiêm chỉnh chấp hành Điều lệ Đảng và quy định của Ban Chấp hành Trung ương.
Thực tế hiện nay số đảng viên làm chủ doanh nghiệp tư nhân ở nước ta còn ít, quy mô rất nhỏ bé. Phần đông họ là những cán bộ, đảng viên đã từng làm việc trong các cơ quan, doanh nghiệp nhà nước nay về hưu, về nghỉ mất sức, hoặc là bộ đội xuất nghũ, công an chuyển ngành, đã được Đảng và Nhà nước đào tạo, bồi dưỡng về chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ. Hầu hết đều gương mẫu chấp hành Điều lệ Đảng, pháp luật của Nhà nước. Nhìn chung, dư luận xã hội hiện nay chưa có băn khoăn nhiều về việc đảng viên làm chủ doanh nghiệp tư nhân. Vì những đảng viên đó đã giải quyết công ăn việc làm cho dân, đã làm tăng của cải cho xã hội, đã đóng góp cho ngân sách nhà nước, đã đối xử tốt với người lao động. Vả lại, theo luật pháp hiện hành, những cán bộ, đảng viên trong biên chế nhà nước, tại chức, tại ngũ không được làm chủ doanh nghiệp tư nhân, nên không đến nỗi quá lo về việc đảng viên là chủ doanh nghiệp tư nhân lợi dụng cương vị, chức quyền để thu vén cho doanh nghiệp tư nhân của mình (nếu có người làm chui, làm ngầm là họ vi phạm pháp luật). Chúng ta cho đảng viên làm kinh tế tư nhân, nhưng với những quy định bảo đảm vừa phát huy khả năng làm kinh tế của đảng viên vừa giữ được tư cách đảng viên, không làm biến chất Đảng. Đảng viên làm kinh tế tư nhân không chỉ làm theo pháp luật của Nhà nước như một công dân bình thường, mà còn phải làm theo nghĩa vụ, trách nhiệm của đảng viên, phải chấp hành Điều lệ và những quy định cụ thể của Đảng.
Tại Hội nghị Trung ương 12, khoá IX, dự thảo Báo cáo chính trị ghi: "Đảng viên làm kinh tế tư nhân không giới hạn về quy mô..." là vì khi đó, phân định các thành phần kinh tế ở nước ta gồm: "kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể; kinh tế cá thể, tiểu chủ; kinh tế tư bản tư nhân; kinh tế tư bản nhà nước; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Đến Hội nghị Trung ương 13, các thành phần kinh tế được phân định như sau: kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân (cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân), kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Với cách phân định này, kinh tế tư nhân đã bao gồm cả kinh tế tư bản tư nhân, do đó, việc ghi "không giới hạn về quy mô" không còn cần thiết nữa.
Những quy định cụ thể đối với đảng viên làm kinh tế tư nhân sẽ do Ban Chấp hành Trung ương khoá X ban hành. Dự kiến những quy định đó có thể là:
- Đảng viên không thuộc phạm vi điều chỉnh của Pháp lệnh công chức và Luật phòng, chống tham nhũng; đảng viên không ở trong biên chế của hệ thống chính trị (Đảng, Nhà nước, Mặt trật Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội), không tại ngũ quân đội và công an.
- Phải trực tiếp tham gia lao động: lao động chân tay, lao động quản lý, lao động điều hành sản xuất, lao động kỹ thuật ở doanh nghiệp do đảng viên làm chủ.
- Gương mẫu chấp hành Điều lệ Đảng, các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; có quan hệ bình đẳng, thân ái, tôn trọng người lao động, thực hiện phân phối dân chủ, công bằng theo kết quả lao động và mức đóng góp vốn, thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội đối với người lao động; tham gia các hoạt động công ích và xã hội.
- Tạo điều kiện cho các tổ chức đảng, đoàn thể trong doanh nghiệp của mình hoạt động thuận lợi.
- Giữ gìn phẩm chất, đạo đức, lối sống lành mạnh; giáo dục những người thân trong gia đình chấp hành tốt các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước.
- Khi có điều kiện, tiến hành cổ phần hoá các doanh nghiệp của mình để công nhân mua cổ phần và tham gia quản lý doanh nghiệp.
- Chịu sự kiểm tra, giám sát và quản lý của tổ chức đảng nơi mình sinh hoạt và nơi cư trú.
Vì vậy, Đoàn Chủ tịch xin kiến nghị:
Đại hội cho khẳng định chủ trương: "Đảng viên làm kinh tế tư nhân phải gương mẫu chấp hành pháp luật, chính sách của Nhà nước, nghiêm chỉnh chấp hành Điều lệ Đảng và quy định của Ban Chấp hành Trung ương" (Ban Chấp hành Trung ương khoá IX biểu quyết với 88,35% số uỷ viên tán thành. Đại hội đảng bộ cấp tỉnh, thành phố có 85% số đại biểu tán thành).
14. Về một số vấn đề bổ sung, sửa đổi Điều lệ Đảng
- Về sinh hoạt định kỳ của đảng bộ: Có ý kiến đề nghị nghiên cứu vấn đề này để quy định linh hoạt hơn; các doanh nghiệp thực hiện như dự thảo thì sẽ rất khó khăn.
Đoàn Chủ tịch cho rằng:
Việc quy định sinh hoạt định kỳ của đảng bộ mỗi năm hai lần là nhằm mục đích tăng cường vai trò kiểm tra của đảng bộ đối với hoạt động của cấp uỷ; tổ chức đảng và đảng viên nắm được đầy đủ thông tin của đảng bộ để đóng góp xây dựng Đảng, nâng cao sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và đảng viên. Đây là nguyện vọng của đa số đảng viên, đã được đa số ý kiến tại đại hội đảng bộ các cấp đồng tình. Sau Đại hội, Bộ Chính trị khoá X sẽ quy định cụ thể, có sự vận dụng cho các đảng bộ cơ sở có tính đặc thù (quá đông đảng viên, hoạt động phân tán...) phù hợp với đặc điểm của mỗi đảng bộ.
Vì vậy, Đoàn Chủ tịch đề nghị Đại hội:
Cho giữ như dự thảo Điều lệ Đảng (bổ sung, sửa đổi).
- Về đề nghị bổ sung quy định: "Cấp trên cách một cấp của cấp ra quyết định kỷ luật là cấp giải quyết khiếu nại cuối cùng". Nếu giữ như Điều lệ Đảng khoá IX thì khiếu nại dồn lên Trung ương, Bộ Chính trị giải quyết không xuể.
Đoàn Chủ tịch đề nghị:
Đại hội cho giữ như Điều lệ Đảng hiện hành, vì vấn đề này đã được đa số ý kiến tại đại hội đảng bộ các cấp nhất trí; có như vậy mới bảo đảm thực sự phát huy dân chủ trong Đảng.
- Về đề nghị Đại hội bầu Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Uỷ ban Kiểm tra Trung ương.
Đoàn Chủ tịch nhận thấy:
Việc Đại hội bầu Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Uỷ ban Kiểm tra Trung ương là vấn đề mới, hệ trọng, cần được nghiên cứu, cân nhắc kỹ. Nếu Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Uỷ ban Kiểm tra Trung ương đều do Đại hội bầu, thì có nghĩa: trách nhiệm, quyền hạn và mối quan hệ của các cơ quan này sẽ thay đổi, nhưng hiện nay chúng ta chưa nghiên cứu, tổng kết đầy đủ. Khi cần bổ sung Uỷ viên Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Uỷ ban Kiểm tra Trung ương do khuyết thì phải triệu tập Đại hội đại biểu toàn quốc.
Ngay chủ trương đại hội đảng bộ xã, phường, thị trấn bầu ban thường vụ, bí thư, phó bí thư, Ban Chấp hành Trung ương khoá IX đã thảo luận và tổ chức lấy ý kiến tại đại hội đảng bộ các cấp, tuy được đa số ý kiến đồng tình nhưng vẫn còn có không ít ý kiến đề nghị cần cân nhắc kỹ, làm thí điểm, tổng kết rút kinh nghiệm.
Vì vậy, Đoàn Chủ tịch xin đề nghị:
Đại hội giao cho Ban Chấp hành Trung ương khoá X chỉ đạo nghiên cứu kỹ vấn đề này để trình Đại hội XI.
15. Về báo cáo kiểm điểm sự lãnh đạo, chỉ đạo của Ban Chấp hành Trung ương khoá IX
Trong quá trình thảo luận, hầu hết ý kiến đại biểu đồng tình với nội dung Báo cáo, cho rằng Ban Chấp hành Trung ương đã kiểm điểm sâu sắc, toàn diện, thể hiện được tinh thần tự phê bình và phê bình nghiêm túc trước Đảng và nhân dân.
Những ý kiến đóng góp của đại biểu vào Báo cáo kiểm điểm chủ yếu đề nghị thêm bớt, chỉnh sửa nội dung hoặc câu chữ để làm rõ hơn, sâu sắc hơn một số nhận định về ưu điểm, khuyết điểm trong lãnh đạo, chỉ đạo của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư trong nhiệm kỳ qua.
Đoàn Chủ tịch xin đề nghị:
Đại hội giao cho Đoàn Chủ tịch chỉ đạo tiếp thu để chỉnh lý, hoàn chỉnh Báo cáo kiểm điểm của Ban Chấp hành Trung ương khoá IX.
16. Về biểu quyết một số vấn đề trong các văn kiện trình Đại hội X
Vừa qua Đoàn Chủ tịch đã gửi xin ý kiến đại biểu về dự thảo Phiếu biểu quyết các văn kiện trình Đại hội X. Đoàn Chủ tịch đã nhận được 1.093 ý kiến của các đại biểu tham gia. Có 846 ý kiến (77,4%) hoàn toàn nhất trí với dự thảo; 247 ý kiến đề nghị sửa đổi, bổ sung một số điểm cụ thể trong các vấn đề dự kiến đưa ra biểu quyết. Đó hầu hết là những điểm đã được nêu ra ở đại hội các cấp và đã được Ban Chấp hành Trung ương khoá IX thảo luận, tiếp thu, chỉ đạo hoàn chỉnh văn kiện trình Đại hội.
Vì vậy, Đoàn Chủ tịch xin đề nghị:
Đại hội cho giữ như dự thảo Phiếu biểu quyết để lấy biểu quyết tại Đại hội.
Xin kính trình Đại hội xem xét, quyết định.