Báo cáo xây dựng Đảng và sửa đổi Điều lệ Đảng của Ban Chấp hành Trung ương khoá VI

Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng không ngừng được tôi luyện, trưởng thành và đã xây dựng nên nhiều truyền thống quý báu, thể hiện bản chất tốt đẹp của Đảng ta. Đó là bản lĩnh chính trị vững vàng, tính kiên định cách mạng, tinh thần độc lập sáng tạo; nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; gắn bó với nhân dân; giữ gìn đoàn kết nội bộ, đoàn kết quốc tế. Tuy có những lúc Đảng phạm sai lầm, khuyết điểm nhưng do biết công khai tự phê bình và quyết tâm sửa chữa, nên Đảng vẫn được nhân dân tin cậy và thừa nhận là đội tiên phong chính trị, người lãnh đạo chân chính duy nhất của dân tộc.

Từ ngày thành lập đến nay, Đảng ta đã lãnh đạo nhân dân ta đấu tranh anh dũng, làm cuộc Cách mạng Tháng Tám thành công, tiến hành các cuộc kháng chiến chống xâm lược, xoá bỏ chế độ thực dân phong kiến, hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc và thống nhất đất nước, đưa cả nước chuyển sang giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa. Ngày nay Đảng đang lãnh đạo nhân dân tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện theo tinh thần Nghị quyết Đại hội VI của Đảng.

Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng không ngừng được tôi luyện, trưởng thành và đã xây dựng nên nhiều truyền thống quý báu, thể hiện bản chất tốt đẹp của Đảng ta. Đó là bản lĩnh chính trị vững vàng, tính kiên định cách mạng, tinh thần độc lập sáng tạo; nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; gắn bó với nhân dân; giữ gìn đoàn kết nội bộ, đoàn kết quốc tế. Tuy có những lúc Đảng phạm sai lầm, khuyết điểm nhưng do biết công khai tự phê bình và quyết tâm sửa chữa, nên Đảng vẫn được nhân dân tin cậy và thừa nhận là đội tiên phong chính trị, người lãnh đạo chân chính duy nhất của dân tộc.

Thực tiễn chứng tỏ sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng nước ta; để lãnh đạo được cách mạng, Đảng phải thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, xây dựng Đảng vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức, có trình độ trí tuệ và năng lực lãnh đạo theo yêu cầu của từng giai đoạn cách mạng, phải phòng và chống được những nguy cơ lớn đối với một đảng lãnh đạo chính quyền là: sai lầm về đường lối, bệnh quan liêu và sự thoái hoá biến chất của cán bộ, đảng viên.

Thắng lợi của cách mạng Việt Nam và truyền thống của Đảng ta gắn liền với tên tuổi đồng chí Hồ Chí Minh - Người sáng lập Đảng, có công lao to lớn vận dụng và phát triển sáng tạo những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, đề ra những luận điểm cơ bản về đảng và dày công xây dựng, rèn luyện Đảng ta. Tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh là biểu hiện tập trung nhất những truyền thống tốt đẹp của Đảng và của dân tộc.

Chúng ta tự hào về Đảng ta và những truyền thống tốt đẹp của Đảng, quyết tâm giữ vững, kế thừa và phát triển các truyền thống đó, ra sức khắc phục những khuyết điểm và nhược điểm, chăm lo xây dựng và bảo vệ Đảng, làm cho Đảng đủ sức lãnh đạo cách mạng Việt Nam tiếp tục tiến lên.

Tại Đại hội VII của Đảng, Ban Chấp hành Trung ương đã trình Đại hội nhiều văn kiện quan trọng. Nhiệm vụ chủ yếu của báo cáo này là trình bày tình hình Đảng và công tác xây dựng đảng từ sau Đại hội VI đến nay, nêu ra phương hướng, nhiệm vụ xây dựng Đảng trong thời gian tới và những vấn đề lớn về sửa đổi Điều lệ Đảng để Đại hội xem xét và quyết định.

 

Phần thứ nhất

TÌNH HÌNH ĐẢNG VÀ CÔNG TÁC XÂY DỰNG ĐẢNG

Thời gian từ Đại hội VI đến nay là một chặng đường có nhiều thử thách lớn đối với Đảng ta, nhân dân ta. Trong tình hình đất nước có nhiều khó khăn, kinh tế - xã hội khủng hoảng, thế giới có những diễn biến hết sức phức tạp, Đảng đã kiên trì lý tưởng xã hội chủ nghĩa, lãnh đạo nhân dân vượt mọi khó khăn, từng bước đưa đường lối Đại hội VI vào cuộc sống và đã thu được những thành tựu bước đầu rất quan trọng.

Bám sát yêu cầu của công cuộc đổi mới, thực hiện phương hướng xây dựng đảng do Đại hội VI đề ra, công tác xây dựng đảng đã đạt một số kết quả :

Trong Đảng tiếp tục có sự đổi mới tư duy, nhất là tư duy kinh tế, bước đầu hình thành hệ thống các quan điểm và nguyên tắc chỉ đạo sự nghiệp đổi mới ở nước ta.

Qua tổng kết hoạt động thực tiễn phong phú từ cơ sở, với tinh thần độc lập và sáng tạo, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị đã cụ thể hoá và phát triển Nghị quyết Đại hội, đề ra nhiều chủ trương, chính sách về đổi mới cơ cấu kinh tế, cơ chế quản lý, về quốc phòng, an ninh, đối ngoại... Việc khẳng định phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, mở rộng quan hệ với bên ngoài, mở rộng dân chủ trong đời sống xã hội là bước chuyển rất quan trọng, đánh dấu sự tiến bộ trong tư duy lý luận gắn liền với hoạt động thực tiễn của Đảng ta.

Trước những diễn biến phức tạp của tình hình thế giới, Đảng đã đề ra những nguyên tắc định hướng công cuộc đổi mới ở nước ta, trên cơ sở đó xây dựng sự nhất trí trong Đảng, phê phán những nhận thức mơ hồ, những quan điểm lệch lạc, nâng cao ý thức cảnh giác đối với mọi âm mưu phá hoại và chống đối.

Thực hiện dân chủ trong Đảng và lãnh đạo thực hiện dân chủ trong xã hội một cách đúng hướng, vừa phát huy trí tuệ tập thể, thực hiện quyền công dân, vừa bảo đảm sự ổn định về chính trị.

Trong sinh hoạt của nhiều cấp uỷ và tổ chức đảng, đã có không khí thảo luận thẳng thắng, phát huy trí tuệ của đông đảo cán bộ, đảng viên trong việc chuẩn bị các đề án, nghị quyết, trong việc bầu cử các cơ quan lãnh đạo. Nhiều cấp uỷ đảng thực hiện tốt hơn chế độ kiểm điểm công tác, tự phê bình và phê bình. Ban Chấp hành Trung ương đã kiểm điểm việc chấp hành Nghị quyết Đại hội vào giữa nhiệm kỳ; các uỷ viên Bộ Chính trị tự phê bình trước Ban Chấp hành Trung ương.

Với cơ chế và chính sách mới, đã bước đầu mở rộng quyền tự chủ của các cơ sở kinh tế, phát huy tiềm năng của các thành phần kinh tế, tạo điều kiện cho mọi người được tự do sản xuất, kinh doanh theo pháp luật. Đã tích cực thực hiện việc lấy ý kiến và tiếp thu ý kiến của nhân dân tham gia xây dựng các chủ trương của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Chú ý nâng cao vai trò của các cơ quan dân cử và các đoàn thể nhân dân. Các phương tiện thông tin đại chúng và các hoạt động văn hoá, văn nghệ có một số đổi mới với nội dung phong phú hơn trước, thảo luận công khai các ý kiến khác nhau, đấu tranh phê phán các hiện tượng tham nhũng, tiêu cực, biểu dương những nhân tố mới.

Kết quả về thực hiện dân chủ trong Đảng và trong xã hội tuy mới là bước đầu, còn nhiều hạn chế, nhưng đã góp phần quan trọng thúc đẩy công cuộc đổi mới.

Đã có những cố gắng trong việc làm trong sạch và nâng cao sức chiến đấu của đội ngũ đảng viên.

Nhiều cấp uỷ và tổ chức đảng đã triển khai thực hiện Nghị quyết 04 của Bộ Chính trị và Nghị quyết 05 của Ban Chấp hành Trung ương, tăng cường kiểm tra đảng viên chấp hành Điều lệ Đảng; thông qua tự phê bình và phê bình, lấy ý kiến quần chúng để đánh giá, xem xét tư cách đảng viên; giải quyết nhiều vụ việc tiêu cực, thư tố cáo cán bộ, đảng viên vi phạm kỷ luật đảng và pháp luật nhà nước; bố trí lại đội ngũ cốt cán. Từ sau Đại hội VI đến tháng 12-1990 đã thi hành kỷ luật 206.181 đảng viên, trong đó đưa ra khỏi Đảng 78.206 người.

Đợt củng cố, làm trong sạch Đảng trước Đại hội VII gắn với đấu tranh chống tham nhũng được chỉ đạo tích cực hơn, đạt một số kết quả. Đại hội đảng bộ hai cấp tiến hành vào cuối năm 1988 đầu năm 1989 và đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội VII vừa qua thật sự là các đợt sinh hoạt chính trị sâu rộng của toàn Đảng, góp phần quan trọng nâng cao ý thức đảng, ý thức trách nhiệm của đông đảo cán bộ, đảng viên đối với sự nghiệp cách mạng.

 

Từ sau Đại hội VI đến nay, các tổ chức đảng đã kết nạp 303.237 đảng viên mới, trong đó có 68,4% là đoàn viên thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, góp phần tăng thêm sức chiến đấu mới cho Đảng. Đến cuối năm 1990, toàn Đảng có 2.155.022 đảng viên, sinh hoạt trong 43.088 chi bộ và đảng bộ cơ sở (dưới đảng uỷ cơ sở có 121.311 chi bộ).

 

Trải qua đấu tranh cách mạng lâu dài và hơn bốn năm tiến hành công cuộc đổi mới, số đông đảng viên mà nòng cốt là đội ngũ cán bộ chủ chốt từ trung ương đến cơ sở đã thể hiện phẩm chất chính trị vững vàng trước mọi thử thách, nhất là trước những biến động hết sức phức tạp của tình hình thế giới; đã kiên định và quyết tâm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng. Trình độ nhận thức lý luận và thực tiễn của nhiều cán bộ, đảng viên đã được nâng lên thể hiện rõ trong việc đóng góp ý kiến vào các văn kiện Đại hội VII ở đại hội đảng bộ các cấp vừa qua. Những cán bộ, đảng viên và những tổ chức đảng năng động, sáng tạo trong việc thực hiện nhiệm vụ, đã đóng góp cho Đảng những kinh nghiệm tốt, góp phần bổ sung đường lối, chính sách của Đảng.

 

Đã thực hiện một bước việc kiện toàn tổ chức và đổi mới cán bộ.

 

Trên cơ sở nhận thức mới về chức năng, nhiệm vụ của các tổ chức trong hệ thống chính trị, nhất là trong điều kiện đổi mới chính sách và cơ chế quản lý, đã tiến hành một bước việc đổi mới cán bộ các cấp, các ngành, sắp xếp lại một số tổ chức, tinh giản biên chế, bỏ bớt một số khâu trung gian. ở nông thôn, phù hợp với yêu cầu tổ chức lại sản xuất, đổi mới cơ chế quản lý nông nghiệp, nhiều chi bộ đảng được sắp xếp lại theo địa bàn dân cư (thôn, xóm, ấp, bản) kết hợp với tổ chức theo đơn vị sản xuất, công tác.

 

Đã có sự cải tiến nhất định trong quan hệ làm việc giữa Trung ương Đảng với Quốc hội, Hội đồng Nhà nước, Hội đồng Bộ trưởng và các đoàn thể; giữa cấp uỷ đảng với cơ quan nhà nước và đoàn thể ở các cấp; khắc phục một phần tình trạng cấp uỷ đảng bao biện làm thay công việc của các cơ quan nhà nước và đoàn thể. Có tiến bộ nhất định trong lãnh đạo, quản lý ở tầm vĩ mô và phát huy quyền chủ động của các đơn vị cơ sở.

 

Các cấp, các ngành đã chú ý bồi dưỡng cho đội ngũ cán bộ những kiến thức, kinh nghiệm mới về lãnh đạo và quản lý. Đồng thời đã điều chỉnh, sắp xếp lại nhiều cán bộ lãnh đạo và quản lý, tăng thêm một số cán bộ trẻ được đào tạo cơ bản, có triển vọng; thay đổi nhiều cán bộ kém năng lực và phẩm chất không đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Chú trọng bố trí cán bộ trong các cơ quan nhà nước, cho các chương trình kinh tế, các ngành và đơn vị trọng điểm. Đã có một số đổi mới về quan điểm đánh giá cán bộ, cải tiến một bước sự phân công, phân cấp quản lý cán bộ. Có tiến bộ hơn về thực hiện nguyên tắc tập thể, dân chủ trong bầu cử và bổ nhiệm cán bộ.

 

Cần đánh giá đúng những kết quả và chuyển biến tích cực nêu trên và khẳng định đó là mặt cơ bản. Đồng thời phải thấy hết những yếu kém và khuyết điểm thể hiện tập trung nhất ở các mặt:

 

- Trình độ kiến thức, năng lực lãnh đạo của Đảng ở các cấp nói chung còn thấp, chưa chuyển kịp theo yêu cầu đổi mới.

 

Vẫn còn nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn nảy sinh trong công cuộc đổi mới chưa được làm sáng tỏ. Một số quan điểm và chủ trương lớn của Đảng chưa được cụ thể hoá một cách đồng bộ. Trình độ các mặt của cán bộ, đảng viên, nhất là trình độ và kinh nghiệm quản lý nhà nước, quản lý kinh tế, lãnh đạo sản xuất kinh doanh theo cơ chế quản lý mới còn nhiều mặt yếu. Sự nhất trí đối với một số chủ trương, chính sách chưa cao. Trong Đảng vừa có những biểu hiện bảo thủ, vừa có khuynh hướng nóng vội, bắt chước cách làm của nước khác; cũng có cả tư tưởng dao động, cơ hội về chính trị.

 

Nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng đổi mới còn chậm, cơ cấu tổ chức còn nhiều bất hợp lý, bộ máy vẫn cồng kềnh, kém hiệu quả.

 

Chuyển sang thực hiện cơ chế mới, chúng ta lúng túng trong việc xác định chức năng, nhiệm vụ, mối quan hệ và lề lối làm việc giữa Đảng với các tổ chức khác trong hệ thống chính trị, nhất là giữa Đảng với Nhà nước ở tất cả các cấp. Nhiều cấp uỷ và tổ chức đảng vẫn còn ôm đồm bao biện công việc của chính quyền và các đoàn thể, đồng thời lại có những biểu hiện buông lỏng và xem nhẹ vai trò lãnh đạo của Đảng trên một số lĩnh vực và ở một số loại hình cơ sở (như xí nghiệp, cơ quan, trường học...). Công tác quần chúng của Đảng chưa được quan tâm đúng mức và chưa có sự đổi mới cơ bản.

 

Còn nhiều vướng mắc trong quan hệ lãnh đạo, quản lý giữa ngành và lãnh thổ, trong việc xác định cơ cấu bộ máy hành chính các cấp, hệ thống tổ chức đảng từ trung ương đến cơ sở và chức năng, nhiệm vụ của các loại hình tổ chức cơ sở đảng. Tổ chức bộ máy và biên chế các cơ quan đảng, nhà nước và đoàn thể ở các cấp vẫn nặng nề. Việc tinh giản bộ máy đạt kết quả thấp do thiếu những phương án tổng thể khoa học, thiếu biện pháp đồng bộ, chỉ đạo không tập trung, kiên quyết. Số tổ chức cơ sở đảng yếu kém còn nhiều, có nơi mất sức chiến đấu.

 

Đội ngũ cán bộ tuy có thay đổi khá nhiều nhưng chưa tạo ra chất lượng mới, công tác cán bộ có nhiều khuyết điểm.

 

Số cán bộ có đủ phẩm chất và năng lực đảm đương tốt nhiệm vụ trong thời kỳ mới chưa nhiều, hoặc chưa được phát hiện và sử dụng hợp lý. Còn thiếu nhiều cán bộ giỏi về quản lý nhà nước, quản lý sản xuất, kinh doanh và chuyên gia đầu ngành. Vẫn còn tình trạng "hụt hẫng", lúng túng trong bố trí hạt nhân lãnh đạo ở các cấp, kể cả ở cấp chiến lược. Đó là do công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ làm chưa tốt; quản lý cán bộ chưa khoa học, nắm cán bộ không chắc. Trong nhận xét, đánh giá, bố trí, đề bạt cán bộ, không ít trường hợp còn theo quan điểm cũ, thiếu dân chủ, có khi còn lệ thuộc vào ý kiến của một vài cán bộ có thẩm quyền. Tư tưởng cá nhân, cục bộ địa phương, phong kiến còn nặng làm cho việc đánh giá, sử dụng cán bộ nhiều khi thiếu chính xác. Chưa có cơ chế hợp lý để phát hiện và lựa chọn nhân tài, thay đổi, bãi miễn những cán bộ không đủ phẩm chất hoặc năng lực đảm đương nhiệm vụ. Chậm đổi mới công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ theo yêu cầu mới. Chính sách đãi ngộ cán bộ còn nhiều bất hợp lý nhưng vẫn chưa được cải tiến một cách căn bản.

 

Dân chủ trong Đảng còn hạn chế, kỷ luật không nghiêm, một số nơi mất đoàn kết nghiêm trọng.

 

Không ít cấp uỷ và tổ chức đảng thiếu tôn trọng và phát huy quyền của đảng viên, ít lắng nghe ý kiến cấp dưới. Không ít cán bộ lãnh đạo chưa quen với những thông tin ngược chiều, không thích nghe ý kiến khác với ý kiến của mình. Còn thiếu những cơ chế cụ thể có hiệu lực bảo đảm phát huy dân chủ, thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng. Có những quy định trong Điều lệ Đảng, trong các quy chế làm việc của Ban Chấp hành Trung ương và các cấp uỷ không được chấp hành nghiêm túc. Hiện tượng cán bộ lãnh đạo độc đoán, mệnh lệnh, trù dập, ức hiếp quần chúng còn xảy ra ở một số nơi, có khi rất trắng trợn. Trong khi tình trạng mất dân chủ hoặc dân chủ hình thức còn nặng thì những biểu hiện dân chủ cực đoan, tự do vô kỷ luật cũng không ít. Tệ bè cánh, mất đoàn kết ở một số cấp uỷ và cơ quan lãnh đạo rất nghiêm trọng. Công tác tư tưởng, công tác kiểm tra chưa thường xuyên và chặt chẽ, nhiều lúc thiếu sắc bén, kịp thời, còn hữu khuynh trong đấu tranh chống tiêu cực và các quan điểm sai trái, lệch lạc. Vẫn còn tình trạng "ô dù" bao che lẫn nhau làm cho việc xử lý cán bộ, đảng viên vi phạm kỷ luật đảng, pháp luật nhà nước không nghiêm, còn "nhẹ trên, nặng dưới", để các hiện tượng tiêu cực phát triển, gây thắc mắc, bất bình trong Đảng và trong nhân dân.

 

Nhiều đảng viên giảm sút ý chí phấn đấu, một bộ phận đã tha hoá, tham nhũng, xa dân, làm giảm sút nghiêm trọng uy tín của Đảng.

 

Trong đội ngũ đảng viên, bộ phận thực sự tiền phong gương mẫu, đáp ứng được yêu cầu của công cuộc đổi mới cả về năng lực, phẩm chất chiếm tỷ lệ chưa cao. Là một Đảng có lịch sử đấu tranh trên 60 năm, số đảng viên là người hưu trí đã chiếm 23% tổng số đảng viên; nhiều đồng chí có phẩm chất chính trị vững vàng, vẫn tích cực tham gia sinh hoạt và công tác, nhưng hạn chế về sức khoẻ và khả năng hoạt động. Một bộ phận đảng viên, tuổi chưa cao, được rèn luyện trong chiến đấu, đã phát huy vai trò tích cực trong chiến tranh, nhưng ít có điều kiện học tập, nâng cao trình độ, nay không theo kịp nhiệm vụ mới.

 

Nhiều đảng viên giảm sút ý chí phấn đấu, phai nhạt lý tưởng, không phát huy được vai trò tích cực trong quần chúng. Tình trạng cán bộ, đảng viên vi phạm các nguyên tắc quản lý hoặc lợi dụng những sơ hở trong cơ chế quản lý để lấy cắp của công, ăn hối lộ, buôn lậu, làm giàu bất chính, vi phạm đạo đức, lối sống cách mạng có chiều hướng tăng lên, nhất là trong cán bộ hoạt động sản xuất kinh doanh, quản lý nhà nước và ngay cả trong một số cơ quan bảo vệ pháp luật, cơ quan đảng và đoàn thể.

 

Tình trạng yếu kém nói trên có nhiều nguyên nhân, chủ yếu là:

 

- Chúng ta tiến hành xây dựng Đảng trong tình hình đất nước có rất nhiều khó khăn với hậu quả nặng nề của chiến tranh và cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp kéo dài. Chủ nghĩa xã hội và nhiều đảng cộng sản trên thế giới lâm vào khủng hoảng toàn diện và sâu sắc nhất từ trước tới nay đã tác động mạnh mẽ đến nước ta. Chúng ta còn thiếu kiến thức và kinh nghiệm khi chuyển sang giai đoạn cách mạng mới. Cơ chế quản lý kinh tế -xã hội chưa đồng bộ và có nhiều sơ hở, chính sách tiền lương còn nhiều bất hợp lý, làm cho công tác xây dựng đảng về tư tưởng, tổ chức và công tác cán bộ gặp nhiều khó khăn.

 

- Đảng chưa đặt đúng tầm quan trọng của việc chỉnh đốn Đảng theo Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, chưa coi trọng đúng mức việc nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội và xây dựng Đảng trong điều kiện Đảng lãnh đạo chính quyền, ở thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Một số cấp uỷ đảng và cán bộ lãnh đạo chưa coi trọng đúng mức công tác xây dựng đảng, không chăm lo đầy đủ công tác giáo dục, rèn luyện đảng viên theo phương hướng tăng cường bản chất giai cấp công nhân và tính tiên phong của Đảng. Một bộ phận cán bộ, đảng viên, kể cả không ít cán bộ lãnh đạo cao cấp, trung cấp thiếu sự tu dưỡng, rèn luyện, học tập để vươn lên.

 

- Sự chỉ đạo của các cấp uỷ đảng, trước hết là của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đối với công tác xây dựng đảng, nhất là đối với việc chấp hành Điều lệ Đảng, thực hiện Nghị quyết 05 của Ban Chấp hành Trung ương, Nghị quyết 04 của Bộ Chính trị và một số chủ trương lớn về tổ chức cán bộ tuy đã có nhiều cố gắng nhưng chưa tập trung, kiên quyết và đồng bộ, thiếu kiểm tra, đôn đốc, tổng kết rút kinh nghiệm, nhiều khi khoán trắng công việc này cho các ban chuyên môn về xây dựng đảng. Chưa gắn chặt công tác xây dựng đảng với việc cải cách bộ máy nhà nước và đổi mới công tác quần chúng.

 

Các cấp uỷ chưa tích cực chỉ đạo việc củng cố và đổi mới các cơ quan tham mưu và nghiên cứu về xây dựng đảng, nhất là đổi mới tư duy và phương thức công tác. Các ban của Đảng, các cơ quan nghiên cứu, các trường đảng ở cả trung ương và địa phương còn có những biểu hiện quan liêu, bảo thủ, trì trệ, chưa nỗ lực vươn lên nâng cao chất lượng công tác của mình đáp ứng yêu cầu của tình hình mới.

 

Phần thứ hai

NHIỆM VỤ ĐỔI MỚI VÀ CHỈNH ĐỐN ĐẢNG TRONG THỜI GIAN TỚI

Công cuộc đổi mới toàn diện đất nước trong bối cảnh quốc tế, trong nước và tình hình Đảng ta hiện nay đòi hỏi Đảng nhất thiết phải tự đổi mới, tự chỉnh đốn. Đây là một nhiệm vụ rất quan trọng và cấp bách, có ý nghĩa quyết định đối với sự thành công của sự nghiệp đổi mới, sự ổn định và phát triển của đất nước và đối với vận mệnh của bản thân Đảng. Đây cũng là nguyện vọng và đòi hỏi của nhân dân.

Phương hướng cơ bản của việc đổi mới và chỉnh đốn Đảng là: Phát huy truyền thống cách mạng, tăng cường bản chất giai cấp công nhân và tính tiên phong của Đảng, xây dựng Đảng thực sự vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, gắn liền với đổi mới cơ chế quản lý kinh tế - xã hội, cải cách bộ máy nhà nước, đổi mới công tác quần chúng, bảo đảm cho Đảng ta - đội tiên phong của giai cấp công nhân, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc - làm tròn trách nhiệm lãnh đạo sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.

Theo phương hướng trên đây, dự thảo Điều lệ Đảng (sửa đổi) trong phần mở đầu đã khẳng định những vấn đề cơ bản về Đảng và xây dựng đảng với những nội dung cơ bản như sau:

 

Đảng Cộng sản Việt Nam lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động, tiếp thu tinh hoa trí tuệ của dân tộc và của nhân loại, nắm vững quy luật khách quan và thực tiễn của đất nước để đề ra Cương lĩnh chính trị, đường lối cách mạng đúng đắn, phù hợp với yêu cầu, nguyện vọng của nhân dân.

 

Mục đích của Đảng là xây dựng nước Việt Nam dân chủ, giàu mạnh theo con đường xã hội chủ nghĩa và cuối cùng là thực hiện lý tưởng cộng sản chủ nghĩa. Đảng giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong quá trình đổi mới, kết hợp sự kiên định về nguyên tắc và chiến lược cách mạng với sự linh hoạt trong sách lược, nhạy cảm nắm bắt cái mới.

 

Đảng kết hợp chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân, ủng hộ sự nghiệp đấu tranh vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội của nhân dân thế giới.

 

Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân, tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân và thường xuyên chịu sự giám sát của nhân dân, đoàn kết và lãnh đạo nhân dân tiến hành sự nghiệp cách mạng. Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị, đồng thời là một bộ phận của hệ thống ấy. Đảng tôn trọng và phát huy vai trò của Nhà nước, của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân, hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật, chống quan liêu, lạm quyền, đặc quyền đặc lợi.

 

Đảng là một khối thống nhất ý chí và hành động, lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản, thực hiện lãnh đạo tập thể và cá nhân phụ trách, tự phê bình và phê bình, giữ vững đoàn kết, thống nhất trong Đảng trên cơ sở Cương lĩnh chính trị và Điều lệ Đảng; đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa cơ hội, chống mọi biểu hiện độc đoán, chuyên quyền, cục bộ, địa phương, chia rẽ, bè phái trong Đảng. Trong tình hình hiện nay, việc khẳng định những vấn đề cơ bản trên đây có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, bảo đảm cho việc đổi mới và chỉnh đốn Đảng không đi chệch những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng đảng.

 

Yêu cầu đổi mới và chỉnh đốn Đảng trong những năm tới là:

 

Tiếp tục đổi mới tư duy lý luận, nâng cao trình độ trí tuệ và năng lực lãnh đạo chính trị; đổi mới một bước cơ bản nội dụng và phương thức lãnh đạo của Đảng; bảo đảm dân chủ, giữ gìn kỷ luật, tăng cường đoàn kết thống nhất trong Đảng; làm trong sạch và nâng cao chất lượng đảng viên; khắc phục có hiệu quả các hiện tượng tiêu cực, đặc biệt là tệ tham nhũng, khôi phục và nâng cao lòng tin của nhân dân đối với Đảng; chấn chỉnh tổ chức, bộ máy và đội ngũ cán bộ; làm cho Đảng có bản lĩnh chính trị, có kiến thức, năng lực và sức chiến đấu mới, đủ sức đoàn kết lãnh đạo toàn dân vượt mọi khó khăn, thử thách, phấn đấu thực hiện có kết quả các nghị quyết của Đại hội VII.

 

Để đạt được những yêu cầu trên, cần làm tốt những nhiệm vụ chủ yếu dưới đây:

 

Một là, phải tiếp tục đổi mới tư duy, nâng cao trình độ trí tuệ và năng lực lãnh đạo chính trị của Đảng. Đây là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu.

 

Phát triển công tác lý luận gắn với tổng kết thực tiễn, chú trọng tổng kết những cái mới đang hằng ngày nảy sinh trong đời sống đất nước và trên thế giới.

 

Tiếp tục làm sáng tỏ những vấn đề cơ bản về chủ nghĩa xã hội, đặc biệt là về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta; quán triệt, phát triển, cụ thể hoá Cương lĩnh chính trị, Chiến lược kinh tế - xã hội và các văn kiện khác của Đại hội một cách đúng đắn, có căn cứ khoa học, đưa công cuộc đổi mới đi vào chiều sâu. Nghiên cứu có hệ thống tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Kịp thời nắm bắt, dự báo và giải đáp những vấn đề mới xuất hiện ở trong nước và quốc tế.

 

Chấn chỉnh hệ thống thông tin, bảo đảm cho cấp uỷ đảng, đặc biệt là cấp trung ương có điều kiện tiếp cận được những vấn đề mới nhất về lý luận và thực tiễn. Cải tiến quy trình chuẩn bị nghị quyết, ra nghị quyết, tổ chức và kiểm tra việc thực hiện nghị quyết, làm cho các nghị quyết thật sự phản ánh được trí tuệ tập thể của Đảng, của nhân dân và được thực hiện đến nơi đến chốn. Có biện pháp và tổ chức thích hợp bảo đảm cho cán bộ, đảng viên, các chuyên gia, các nhà khoa học trong và ngoài Đảng phát huy mọi sáng kiến và sự suy nghĩ độc lập, tích cực tham gia vào các quá trình trên. Đối với những vấn đề mới và khó, hoặc còn nhiều ý kiến khác nhau cần chuẩn bị nhiều phương án để cân nhắc, thực hiện chế độ làm thử, rút kinh nghiệm trước khi ra nghị quyết.

 

Các cơ quan tham mưu, cơ quan nghiên cứu giúp cấp uỷ chuẩn bị nghị quyết phải được kiện toàn, bao gồm những cán bộ và chuyên gia có phẩm chất chính trị và kiến thức khoa học, am hiểu thực tế, có khả năng tư duy độc lập, phân tích tổng hợp, biết lắng nghe các ý kiến khác nhau, tiếp thu những ý kiến đúng.

 

Hai là, tăng cường công tác giáo dục chính trị tư tưởng, bồi dưỡng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng, nâng cao trình độ kiến thức của cán bộ, đảng viên và nhân dân.

 

Công tác chính trị tư tưởng có nhiệm vụ làm cho thế giới quan Mác - Lênin, tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh thấm nhuần trong Đảng và giữ vị trí chỉ đạo trong đời sống tinh thần xã hội; nâng cao ý chí phấn đấu, xây dựng niềm tin vững chắc vào con đường xã hội chủ nghĩa, đấu tranh không khoan nhượng với các luận điệu xuyên tạc chủ nghĩa Mác - Lênin, xuyên tạc đường lối, chính sách của Đảng; xây dựng phương pháp tư duy khoa học, chống chủ nghĩa giáo điều, chủ nghĩa kinh nghiệm và chủ nghĩa cơ hội dưới mọi màu sắc. Khắc phục những biểu hiện bi quan dao động, giảm sút ý chí phấn đấu, bảo thủ trì trệ, chủ quan nóng vội. Đặc biệt chú trọng giáo dục lý tưởng cách mạng cho thế hệ trẻ.

 

Bảo vệ và phát huy truyền thống yêu nước và cách mạng của Đảng, của giai cấp công nhân và của dân tộc đồng thời tiếp thu tinh hoa trí tuệ của nhân loại. Phê phán tư tưởng coi nhẹ hoặc phủ định truyền thống và thành quả cách mạng của Đảng và nhân dân. Nâng cao kiến thức và năng lực tổ chức thực tiễn cho cán bộ, đảng viên, gắn liền với đẩy mạnh sự nghiệp giáo dục, không ngừng nâng cao dân trí.

 

Bồi dưỡng đạo đức cách mạng, lối sống lành mạnh. Tiếp tục đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống tiêu cực trong Đảng và trong xã hội. Chống sự tha hoá về phẩm chất chính trị, xa rời quần chúng, tham nhũng, làm ăn bất chính, chạy theo tiền tài, danh vị, chia rẽ bè phái. Chống việc phục hồi các hủ tục, mê tín, dị đoan.

 

Nâng cao ý thức cảnh giác cách mạng, không mơ hồ về bản chất của chủ nghĩa đế quốc và các lực lượng chống chủ nghĩa xã hội. Kịp thời đấu tranh chống những luận điệu chiến tranh tâm lý, phản tuyên truyền của các thế lực thù địch và những phần tử xấu. Tăng cường công tác bảo vệ Đảng, bảo vệ chính quyền, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa.

 

Đổi mới mạnh mẽ phương pháp công tác tư tưởng, có nhiều hình thức thiết thực, sinh động, phù hợp với từng đối tượng.

 

Nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác thông tin, báo chí, xuất bản, văn hoá, văn nghệ. Bố trí đúng và nâng cao trách nhiệm của những cán bộ phụ trách các cơ quan này.

 

Tăng cường và từng bước hiện đại hoá cơ sở vật chất - kỹ thuật của các cơ quan làm công tác tư tưởng. Có chính sách tài chính đúng đắn đối với các hoạt động báo chí, xuất bản, thông tin cổ động, văn hoá, văn nghệ, giáo dục lý luận, nghiên cứu khoa học.

 

Ba là, đổi mới nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị, trước hết là đối với Nhà nước; đổi mới công tác quần chúng của Đảng.

 

Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng cương lĩnh, chiến lược, cách định hướng về chính sách và những chủ trương công tác, lãnh đạo Nhà nước thể chế hoá thành hiến pháp, pháp luật, chính sách, trên cơ sở đó Nhà nước quản lý, điều hành mọi mặt đời sống xã hội.

 

Đảng kiểm tra và giám sát việc thực hiện đường lối, nghị quyết của Đảng thông qua hoạt động của đảng viên và tổ chức đảng trong các cơ quan nhà nước và dựa vào ý kiến của nhân dân.

 

Đảng chăm lo công tác cán bộ, bồi dưỡng, lựa chọn cán bộ đưa ra ứng cử vào các cơ quan dân cử, hoặc giới thiệu với Nhà nước để đề bạt, bổ nhiệm vào các cương vị chủ chốt ở các ngành, các cấp. Đảng tôn trọng cơ chế của Nhà nước về bầu cử, tuyển dụng, bổ nhiệm, miễn nhiệm cán bộ, không gò ép, áp đặt.

 

Đảng lãnh đạo xây dựng bộ máy nhà nước trong sạch, vững mạnh thực sự là Nhà nước của dân, do dân, vì dân, theo nguyên tắc tập trung dân chủ, thống nhất quyền lực, phân công phân nhiệm rõ ràng.

 

Đảng lãnh đạo bằng công tác tư tưởng, tổ chức, vai trò tiên phong, gương mẫu của đảng viên và tổ chức đảng (như đảng đoàn, ban cán sự, tổ chức cơ sở đảng).

 

Đảng lãnh đạo Nhà nước nhưng không bao biện làm thay công việc của Nhà nước. Đảng viên công tác trong cơ quan nhà nước phải nghiêm chỉnh chấp hành nghị quyết của Đảng, làm tròn nhiệm vụ Đảng giao, gương mẫu thực hiện nghĩa vụ công dân, tuân theo pháp luật, không được lợi dụng chức quyền làm điều sai trái, giành đặc quyền, đặc lợi.

 

Trong điều kiện lãnh đạo chính quyền, Đảng đặc biệt coi trọng đổi mới công tác quần chúng của Đảng theo quan điểm: cách mạng là sự nghiệp của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân; sức mạnh của Đảng là ở sự gắn bó mật thiết với nhân dân. Quan liêu, mệnh lệnh, xa rời nhân dân, làm suy yếu sức mạnh của Đảng, của cách mạng sẽ đưa đến những tổn thất không lường được đối với vận mệnh của đất nước.

 

Đường lối, chính sách của Đảng phải xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chân chính của nhân dân. Tạo mọi điều kiện để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân. Khắc phục tình trạng vi phạm dân chủ, dân chủ hình thức; đồng thời chống dân chủ cực đoan, lợi dụng dân chủ để gây rối trong xã hội.

 

Các tổ chức đảng từ trung ương đến cơ sở phải lấy công tác vận động quần chúng và lãnh đạo công tác của các đoàn thể làm một nội dung thường xuyên trong hoạt động của mình. Cán bộ lãnh đạo phải thường xuyên đi sát cơ sở, đi sát nhân dân, trực tiếp trao đổi ý kiến với nhân dân, học hỏi kinh nghiệm sáng tạo của nhân dân.

 

Đảng tôn trọng tính tự chủ về tổ chức và hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân, hướng dẫn và tạo điều kiện cho mặt trận và các đoàn thể, nhất là Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Tổng Liên đoàn Lao động, Hội Nông dân, Hội Liên hiệp Phụ nữ...đổi mới nội dung và phương thức hoạt động đúng hướng, đạt hiệu quả. Đảng lắng nghe và trân trọng ý kiến đóng góp của Mặt trận và các đoàn thể đối với sự lãnh đạo của Đảng và cán bộ, đảng viên, khuyến khích các đoàn thể chủ động đóng góp ý kiến xây dựng đường lối, chủ trương của Đảng và pháp luật của Nhà nước.

 

Bốn là, bảo đảm dân chủ, giữ gìn kỷ luật, tăng cường đoàn kết thống nhất trong Đảng.

 

Có nhận thức đúng đắn và thống nhất về yêu cầu, nội dung dân chủ và nguyên tắc tập trung dân chủ; đồng thời có cơ chế bảo đảm  thực hiện những nội dung đó. Dự thảo Điều lệ Đảng (sửa đổi) lần này có bổ sung một số quy định chính là nhằm tạo ra cơ chế đó.

 

Trước hết, phải bảo đảm thực hiện các quyền của đảng viên, nhất là quyền được thảo luận một cách thẳng thắn các vấn đề đường lối, chính sách của Đảng, quyền được phê bình, chất vấn trong phạm vi tổ chức về hoạt động của tổ chức đảng và đảng viên ở mọi cấp. Dự thảo Điều lệ (sửa đổi) nhấn mạnh quyền được thông tin, quyền được bảo lưu ý kiến của đảng viên. Những quy định trên tạo điều kiện khắc phục tình trạng cấp uỷ vi phạm quyền của đảng viên, còn đảng viên thì thụ động tiêu cực.

 

Để tăng cường sự kiểm tra, giám sát đối với hoạt động của cấp uỷ, dự thảo Điều lệ Đảng (sửa đổi) yêu cầu phải thực hiện đúng các quy định về triệu tập đại hội thường lệ và đại hội bất thường, kể cả ở cơ sở. Đồng thời đề nghị tăng thêm quyền của hội nghị đại biểu: hội nghị đại biểu được triệu tập giữa hai kỳ đại hội; hội nghị đại biểu có thẩm quyền bổ sung nghị quyết của đại hội cho phù hợp với tình hình mới trên cơ sở Cương lĩnh chính trị, đường lối của Đảng, nghị quyết của cấp trên; bầu bổ sung uỷ viên ban chấp hành; nghị quyết của hội nghị đại biểu, kể cả ở cấp trung ương, không phải thông qua ban chấp hành.

 

Trong Đảng từ trung ương đến cơ sở phải chấp hành nghiêm túc các quy định về chế độ báo cáo, chế độ tự phê bình và phê bình. Các cơ quan được bầu phải chịu sự giám sát của tổ chức đảng và đảng viên, phải báo cáo hoạt động trước cơ quan đã bầu ra mình, thường xuyên thông báo tình hình và hoạt động của mình đến các tổ chức đảng cấp dưới và đảng viên. Thực hiện chế độ Ban Chấp hành Trung ương kiểm tra, giám sát hoạt động của Bộ Chính trị, Ban Bí thư; các cấp uỷ kiểm tra, giám sát hoạt động của ban thường vụ: các uỷ viên Bộ Chính trị, uỷ viên thường vụ các cấp tự phê bình trước ban chấp hành. Quy định cụ thể chế độ cấp trên tự phê bình trước cấp dưới và tổ chức việc phê bình từ dưới lên. Thực hiện đều đặn chế độ quần chúng phê bình cán bộ, đảng viên và tổ chức đảng. Cán bộ lãnh đạo phải gương mẫu tự phê bình và tiếp thu phê bình. Nghiêm cấm việc trù dập người phê bình thẳng thắn; đồng thời kiên quyết xử lý những kẻ lợi dụng phê bình để đả kích cá nhân, vu cáo, chia rẽ.

 

Để nâng cao vai trò, trách nhiệm và quyền hạn của uỷ ban kiểm tra các cấp, dự thảo Điều lệ (sửa đổi) đề nghị quy định: uỷ ban kiểm tra có chức năng kiểm tra việc thực hiện các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt đảng, kiểm tra việc chấp hành quy chế làm việc của tổ chức đảng cấp dưới, kiểm tra việc giữ gìn phẩm chất đạo đức cách mạng của đảng viên, xem xét và xử lý kỷ luật các tổ chức đảng và đảng viên theo đúng quy định của Điều lệ Đảng.

 

Năm là, làm trong sạch Đảng và nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên.

 

Đảng viên phải làm tròn những nhiệm vụ đảng viên ghi trong Điều lệ Đảng. Trong giai đoạn cách mạng mới cần nhấn mạnh: đảng viên phải có phẩm chất chính trị vững vàng, tuyệt đối trung thành với lý tưởng cách mạng của Đảng, có thái độ tích cực đối với công cuộc đổi mới, đồng thời phải có trình độ trí tuệ, năng lực lãnh đạo để thực hiện nhiệm vụ đổi mới.

 

Trong cuộc đấu tranh để xoá bỏ nghèo nàn lạc hậu, thực hiện dân giàu, nước mạnh, đảng viên hoạt động trong các thành phần kinh tế phải nêu được vai trò tiền phong, gương mẫu; bằng lao động sáng tạo, có năng suất và chất lượng cao của mình góp phần tích cực vào việc phát triển lực lượng sản xuất, giải quyết việc làm cho người lao động, ổn định và nâng cao đời sống nhân dân, trong đó có bản thân và gia đình mình. Đảng viên làm kinh tế phải gương mẫu chấp hành luật pháp, chính sách của Nhà nước, có lối sống lành mạnh và giữ được quan hệ tốt với quần chúng.

 

Đảng viên là công nhân, viên chức tại chức, ngoài việc hoàn thành nhiệm vụ công tác, được khuyến khích phát triển kinh tế gia đình. Đảng viên được góp cổ phần vào các công ty, xí nghiệp quốc doanh, tập thể. Đảng viên không ở trong biên chế của các cơ quan đảng, nhà nước, đoàn thể, bản thân trực tiếp lao động (lao động chân tay, lao động kỹ thuật, lao động quản lý) được đứng ra tổ chức các đơn vị kinh tế tập thể (tổ sản xuất, hợp tác xã...); được đấu thầu, nhận khoán đất đai, thuê tài sản của Nhà nước, của tập thể để tổ chức kinh doanh; được làm kinh tế cá thể, tiểu chủ. Đảng viên không được làm kinh tế tư bản tư nhân; đối với những trường hợp đặc biệt thì tổ chức đảng sẽ xem xét giải quyết từng trường hợp cụ thể theo quy định của Ban Chấp hành Trung ương.

 

Để nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của đội ngũ đảng viên, cần có kế hoạch giáo dục, bồi dưỡng nâng cao giác ngộ lý tưởng xã hội chủ nghĩa và trình độ mọi mặt của đảng viên. Thực hiện nền nếp phân công đảng viên, kiểm tra đảng viên chấp hành Điều lệ Đảng và nhiệm vụ được giao. Thông qua công tác thực tế, qua phong trào quần chúng để giáo dục, rèn luyện đảng viên. Biểu dương, khuyến khích và phát huy vai trò tích cực của những đảng viên tiên phong gương mẫu, phấn đấu hoàn thành tốt nhiệm vụ. Chú trọng bồi dưỡng các đảng viên mới, đảng viên trẻ.

 

Đối với những đảng viên già yếu, không trực tiếp sản xuất, công tác, tổ chức đảng cần có hình thức sinh hoạt thích hợp và phân công hợp lý để các đồng chí thuận tiện trong sinh hoạt đảng và tiếp tục đóng góp vào công việc chung. Những đồng chí già yếu, ốm đau lâu ngày, tự nguyên xin miễn công tác và sinh hoạt đảng, thì chi bộ xem xét quyết định.

 

Đối với những đảng viên tự nguyện xin ra Đảng vì những lý do khác nhau (không phải là do vi phạm kỷ luật của Đảng), thì chi bộ xem xét, chấp nhận và báo cáo lên cấp uỷ có thẩm quyền để kiểm tra lại. Đảng trân trọng ghi nhận những cống hiến của đảng viên và giữ mối liên hệ tốt với các đồng chí ấy.

 

Đối với những đảng viên trình độ hạn chế, nhưng vẫn gắn bó với Đảng, tổ chức đảng cần tận tình giúp đỡ, tạo điều kiện để các đồng chí đó làm tốt nhiệm vụ đảng viên.

 

Kiên quyết làm trong sạch đội ngũ đảng viên. Thông qua công tác kiểm tra của Đảng và dựa vào quần chúng để nhận xét, đánh giá đúng đảng viên, đưa ra khỏi Đảng những người không còn tư cách đảng viên, trước hết là những đảng viên thoái hoá, biến chất, tham nhũng, cơ hội, gây chia rẽ, bè phái, trù dập, ức hiếp quần chúng, bị quần chúng oán ghét. Kịp thời xử lý bằng những hình thức kỷ luật thích hợp đối với những đảng viên vi phạm kỷ luật Đảng, dù đảng viên đó là cán bộ lãnh đạo ở bất cứ cấp nào.

 

Xoá tên trong danh sách đảng viên những người không thiết tha với Đảng, giảm sút ý chí phấn đấu, không tích cực làm nhiệm vụ đảng viên, không còn tín nhiệm trong quần chúng và những đảng viên bỏ sinh hoạt đảng hoặc không đóng đảng phí 3 tháng trong năm mà không có lý do chính đáng. Một số trường hợp xét còn có thể giúp đỡ để tiến bộ thì định thời hạn để những đảng viên đó phấn đấu và tổ chức đảng phải có kế hoạch giáo dục, bồi dưỡng; nếu hết thời hạn mà không tiến bộ thì cũng xoá tên trong danh sách đảng viên, hoặc khuyên rút ra khỏi Đảng. Đây là việc phải tập trung chỉ đạo thực hiện tốt để khắc phục "sức ỳ" lớn trong đảng hiện nay, từ đó nâng cao sức chiến đấu của đội ngũ đảng viên.

 

Chỉ đạo chặt chẽ công tác kết nạp đảng viên mới nhằm tăng thêm năng lực và trí tuệ mới, trẻ hoá đội ngũ, từng bước khắc phục tình trạng tỉ lệ đảng viên quá thấp ở một số đơn vị (như xí nghiệp, trường học, cơ sở tiểu, thủ công nghiệp) và một số vùng (như vùng đồng bào dân tộc, vùng tôn giáo). Coi trọng chất lượng, không chạy theo số lượng, đề phòng bọn cơ hội tìm cách vào Đảng.

 

Chăm lo bồi dưỡng, kết nạp vào Đảng những người ưu tú trong công nhân, nông dân, trong trí thức, trong lực lượng vũ trang và các tầng lớp nhân dân lao động khác. Tuỳ theo hoàn cảnh từng nơi, tỉnh uỷ, thành uỷ có thể quy định trình độ học vấn đối với người kết nạp vào Đảng. Đặc biệt coi trọng kết nạp những thanh niên nam nữ ưu tú vào Đảng. Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh phải được các cấp uỷ đảng coi trọng giúp đỡ xây dựng để xứng đáng là đội dự bị tin cậy của Đảng, hạt nhân nòng cốt của phong trào thanh niên và là lực lượng kế tục sự nghiệp cách mạng của dân tộc và của Đảng. Phải đặt công tác xây dựng đoàn trong mối quan hệ gắn bó chặt chẽ với công tác xây dựng đảng.

 

Sáu là, củng cố các tổ chức cơ sở đảng và các cấp uỷ đảng.

 

Theo yêu cầu đổi mới cơ chế quản lý, đổi mới nội dung và phương thức lãnh đạo, phải nghiên cứu sắp xếp lại tổ chức của Đảng. Tổ chức cơ sở đảng được lập theo đơn vị cơ sở hành chính, kinh tế hoặc công tác, đặt dưới sự lãnh đạo của cấp uỷ địa phương. Không tổ chức đảng theo ngành dọc, trừ đảng bộ quân đội theo quy định của Điều lệ Đảng và một số ngành công tác đặc biệt do Trung ương quy định; nhưng cần tăng cường mối quan hệ giữa cấp uỷ địa phương và cơ quan lãnh đạo ngành trong chỉ đạo các hoạt động có liên quan ở cơ sở. Trong một số trường hợp nhất định, nếu được sự đồng ý của Trung ương, các tỉnh uỷ, thành uỷ có thể thành lập một số đảng uỷ (hoặc ban cán sự đảng) cấp trên của những tổ chức cơ sở chưa thể giao về trực thuộc các quận uỷ, huyện uỷ. Một số tổ chức cơ sở đảng trong các viện nghiên cứu, trường đại học, công ty, xí nghiệp lớn có thể đặt trực thuộc các tỉnh uỷ, thành uỷ. Sắp xếp lại và củng cố tổ chức, tăng cường hoạt động của các đảng uỷ khối các cơ quan trung ương. Tất cả các đảng bộ cơ sở và cấp trên của cơ sở đóng trên địa bàn lãnh thổ và những đảng viên thuộc các đảng bộ này đều có trách nhiệm tham gia công tác xã hội, công tác vận động quần chúng ở địa phương theo hướng dẫn của cấp uỷ địa phương.

 

Các tổ chức cơ sở đảng thuộc các loại hình khác nhau như nông thôn, xí nghiệp, trường học, cơ quan, viện nghiên cứu, đơn vị quân đội, công an... đều phải được củng cố để thật sự phát huy vai trò lãnh đạo trong đơn vị. Căn cứ vào nhiệm vụ chung của tổ chức cơ sở đảng trong dự thảo Điều lệ Đảng (sửa đổi) cần sớm cụ thể hoá nhiệm vụ, chức trách, phương thức lãnh đạo của từng loại hình cơ sở đảng.

 

Cải tiến sinh hoạt đảng, nhất là sinh hoạt chi bộ. Mọi đảng viên, kể cả đảng viên là cán bộ lãnh đạo, phải thực hiện tốt những nhiệm vụ do chi bộ phân công, phải chịu sự giám sát của chi bộ về ý thức chấp hành đường lối, chính sách, nguyên tắc tổ chức, sinh hoạt đảng và về đạo đức, lối sống, quan hệ với quần chúng ở nơi làm việc và nơi ở. Đảng uỷ cấp trên cần chỉ đạo chặt chẽ việc kiện toàn tổ chức cơ sở đảng. Thu hẹp diện cơ sở yếu kém. Tổng kết để phổ biến kinh nghiệm của những tổ chức cơ sở đảng vững mạnh. Đặc biệt chú trọng bồi dưỡng, bố trí đội ngũ cốt cán. Nâng cao chất lượng cán bộ đảng chuyên trách; bồi dưỡng bí thư đảng uỷ và đảng viên đủ tiêu chuẩn để giới thiệu vào các cương vị lãnh đạo và quản lý ở cơ sở.

 

Một công việc hết sức quan trọng là phải nâng cao chất lượng cấp uỷ đảng từ trung ương đến cơ sở, đặc biệt là Ban Chấp hành Trung ương Đảng, theo những tiêu chuẩn cấp uỷ viên đã nêu trong dự thảo Điều lệ Đảng (sửa đổi), bảo đảm tập trung trí tuệ của toàn Đảng, của mỗi đảng bộ. Nâng cao năng lực lãnh đạo của cấp uỷ phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của mỗi cấp. Thực hiện đổi mới, nâng cao chất lượng của cấp uỷ qua mỗi kỳ đại hội và bảo đảm tính kế thừa trong cơ quan lãnh đạo. Kịp thời thay đổi, rút ra khỏi cấp uỷ những người giảm sút tín nhiệm do năng lực và phẩm chất kém, không chờ đến hết nhiệm kỳ, bổ sung cấp uỷ viên khi có yêu cầu theo quy định của Điều lệ Đảng. Xây dựng và thực hiện nghiêm túc các quy chế làm việc của cấp uỷ từ trung ương đến cơ sở.

 

Bảy là, tiếp tục đổi mới công tác cán bộ, xây dựng đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu của công cuộc đổi mới và kế tục sự nghiệp cách mạng.

 

Đây là một nhiệm vụ đặc biệt quan trọng.

 

Mục tiêu của công tác cán bộ là xây dựng đội ngũ cán bộ đồng bộ và có chất lượng, mà nòng cốt là đội ngũ cán bộ chủ chốt của các ngành, các cấp và cơ sở, trước hết là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, có đủ phẩm chất và năng lực, bảo đảm thực hiện thắng lợi những nhiệm vụ của 5 năm tới và sự vững vàng của Đảng trước mọi khó khăn, thử thách, đồng thời tích cực chuẩn bị cán bộ cho những năm tiếp theo.

 

Tiêu chuẩn cơ bản của cán bộ lãnh đạo trong giai đoạn hiện nay là: có bản lĩnh chính trị vững vàng; có ý thức trách nhiệm và tinh thần đổi mới; trung thực và thẳng thắn; có kiến thức và năng lực tổ chức thực tiễn; có tinh thần học tập để không ngừng nâng cao trình độ; có lối sống lành mạnh, được nhân dân tín nhiệm. Trên cơ sở xác định tiêu chuẩn cơ bản của cán bộ lãnh đạo và quản lý, cần khẩn trương xây dựng tiêu chuẩn cán bộ theo từng chức danh ở các cấp, các ngành.

 

Xúc tiến và đổi mới công tác quy hoạch cán bộ, tích cực đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, nhất là cán bộ lãnh đạo của Đảng, cán bộ quản lý nhà nước, cán bộ quản lý sản xuất kinh doanh, chuyên gia trên các lĩnh vực theo yêu cầu thiết thực của công cuộc đổi mới, coi đây là nhiệm vụ hàng đầu và cấp bách của công tác cán bộ. Sắp xếp lại hệ thống trường lớp; cải cách nội dung và quy chế đào tạo, bồi dưỡng cán bộ.

 

Trong bố trí, sử dụng cán bộ phải thể hiện rõ quan điểm đổi mới. Xuất phát từ yêu cầu nhiệm vụ và căn cứ vào tiêu chuẩn cán bộ để bố trí, sử dụng cán bộ. Phải lấy kết quả thực tế thực hiện nhiệm vụ được giao làm căn cứ chủ yếu để nhận xét, đánh giá cán bộ; không đơn thuần theo quá trình, bằng cấp, học vị, tuổi tác. Kiên quyết bãi miễn và đưa ra khỏi cương vị lãnh đạo và quản lý ở mọi cấp những cán bộ kém phẩm chất và năng lực, không đảm đương được nhiệm vụ. Bố trí lại những cán bộ phân công không hợp lý. Mạnh dạn đề bạt cán bộ trẻ có đủ tiêu chuẩn và có triển vọng. Không điều chuyển cán bộ từ ngành này, vị trí này sang ngành khác, vị trí khác nếu những cán bộ đó không phù hợp với nhiệm vụ được giao.

 

Xoá bỏ quan niệm hễ là cấp uỷ viên thì bố trí làm cán bộ lãnh đạo ở ngành nào, ở đơn vị nào cũng được, không kể năng lực có phù hợp không. Quan tâm đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng tốt đội ngũ trí thức, đội ngũ cán bộ nữ, cán bộ dân tộc thiểu số, cán bộ xuất thân là công nhân. Đoàn kết, sử dụng hợp lý mọi lực lượng cán bộ trong Đảng và ngoài Đảng; không hẹp hòi, định kiến về lý lịch và thành phần xuất thân. Kịp thời phát hiện những cán bộ trẻ, có tài, đồng thời biết sử dụng có hiệu quả những cán bộ lớn tuổi đã từng trải, có kinh nghiệm. Chống tư tưởng phong kiến gia trưởng, cục bộ địa phương trong công tác cán bộ.

 

Từng bước hình thành các cơ chế phát hiện, tuyển chọn, đề bạt và bãi miễn cán bộ một cách khoa học và có hiệu quả. Làm đúng các quy định và quy trình dân chủ, tôn trọng ý kiến của cấp dưới và tập thể, không áp đặt ý kiến cá nhân. Rút kinh nghiệm để làm tốt việc thi tuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý ở các đơn vị kinh tế, sự nghiệp...

 

Sửa đổi các chính sách, chế độ đãi ngộ cán bộ, xoá bỏ các chế độ chính sách mang tính bình quân, bao cấp và những quy định có tính đặc quyền, đặc lợi. Có chính sách đãi ngộ thoả đáng đối với những cán bộ có tài, có cống hiến xuất sắc, cán bộ có nhiều công lao với Tổ quốc, cán bộ cơ sở, kể cả cán bộ trong và ngoài Đảng. Sớm cải tiến chế độ tiền lương và các chính sách, chế độ xã hội khác. Thực hiện đúng đắn chính sách, chế độ đối với cán bộ hoạt động lâu năm, cán bộ hưu.

 

Tăng cường sự lãnh đạo thống nhất của Đảng và nâng cao trách nhiệm của các cơ quan nhà nước, các đoàn thể đối với công tác cán bộ.Cán bộ lãnh đạo chủ chốt ở mỗi cấp, mỗi ngành phải đích thân chăm lo công tác cán bộ và khắc phục bệnh chủ quan, thiếu công tâm trong công tác cán bộ để làm tốt công tác quan trọng này. Kiện toàn các cơ quan tham mưu các cấp về công tác cán bộ, không để những cán bộ không vững vàng về chính trị, không trung thực, kém phẩm chất và năng lực làm công tác cán bộ.

 

*

 

*      *

Công tác xây dựng đảng vốn đã quan trọng, lúc này càng hết sức quan trọng. Vì vậy trong thời gian tới việc đổi mới và chỉnh đốn đảng phải được chỉ đạo một cách kiên quyết, có bước đi vững chắc, làm từ trung ương đến cơ sở, bằng nhiều biện pháp đồng bộ, gắn với quá trình đổi mới cơ chế quản lý, tăng cường hệ thống chính trị, cải cách bộ máy nhà nước, dựa vào nhân dân, thông qua phong trào cách mạng của nhân dân để đổi mới, chỉnh đốn Đảng.

 

Ban Chấp hành Trung ương cần có kế hoạch cụ thể để chỉ đạo thực hiện có hiệu quả các quyết định của Đại hội về công tác xây dựng đảng và Điều lệ Đảng, tạo ra một bước chuyển biến quan trọng về đổi mới và chỉnh đốn đảng trong 5 năm tới. Đồng thời xúc tiến tổng kết công tác xây dựng đảng trong các thời kỳ, nhất là trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, góp phần nâng cao trình độ lý luận về xây dựng đảng và hoàn chỉnh lịch sử Đảng.

Tin tức khác

Diễn văn khai mạc Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII Đảng Cộng sản Việt Nam khai mạc tại Hội trường Ba Đình lịch sử. Về dự Đại hội có 1.176 đồng chí đại biểu nam và nữ đại diện cho hơn hai triệu đảng viên ở các lĩnh vực hoạt động khác nhau từ mọi miền của đất nước hoặc đang công tác ở nước ngoài.

Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương khoá VI trình tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng

Đại hội VII của Đảng có nhiệm vụ tổng kết việc thực hiện Nghị quyết Đại hội VI, đánh giá những việc làm được, những việc có thể làm nhưng chưa làm được, những vấn đề mới nảy sinh, chỉ ra những ưu điểm, khuyết điểm, nguyên nhân và kinh nghiệm trên các lĩnh vực chủ yếu. Trên cơ sở đó, hoàn chỉnh, bổ sung và phát triển các chủ trương đổi mới của Đại hội VI, đề ra các phương hướng, nhiệm vụ lớn cho 5 năm 1991-1995.

Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000

Sau khi hoàn thành sự nghiệp giải phóng và thống nhất đất nước, nhân dân ta đã đạt được những thành tựu to lớn trong công cuộc hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi phục và phát triển sản xuất, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật, mở mang giáo dục, khoa học, văn hoá, y tế. Tuy nhiên, nền kinh tế vẫn ở tình trạng nông nghiệp lạc hậu, còn nặng tính chất tự cấp, tự túc. Trang bị kỹ thuật và kết cấu hạ tầng kinh tế -xã hội thấp kém. Cơ cấu kinh tế mất cân đối nặng. Cơ chế quản lý tập trung quan liêu, bao cấp để lại nhiều hậu quả nặng nề. Nền kinh tế rất kém hiệu quả, năng suất lao động thấp, tích luỹ trong nước chưa đáng kể, còn lệ thuộc nhiều vào bên ngoài.

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội

Sau thắng lợi lịch sử mùa Xuân 1975, nhân dân ta tiếp tục nêu cao chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa anh hùng cách mạng và đã đạt những thành tựu to lớn: thiết lập chính quyền nhân dân ở cả miền Nam, thống nhất nước nhà; khôi phục kinh tế, khắc phục hậu quả nặng nề của chiến tranh; từng bước xây dựng quan hệ sản xuất mới và cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội; bảo vệ vững chắc Tổ quốc; làm tròn nghĩa vụ quốc tế.